Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

Xem bài mới nhất trên Giaoblog, "an yên" và "hữu móng"...

 


Bài viết này hơi có tính cá nhân một chút, viết sau khi mình đọc được bài viết mới nhất trên Giao blog  Học tiếng Việt : "an yên" rồi "hữu móng" (loài hữu móng).

Lẽ ra nó chỉ nên là một  comment thôi.

Đầu tiên, phải nói là, hồi xưa mình vốn là fan hâm mộ các bài viết mang đầy tính chiến đấu của anh Đông La và anh Hòa Bình, sau đó mới biết đến Giao Blog, là trang có tính ôn hòa hơn.

Nhưng anh Hòa Bình lâu rồi không còn viết blog nữa, còn trang của anh Đông La, cách đây khoảng 2 năm, và trang của bạn Giao, cách đây khoảng 1 tháng, thì cấm cửa mình. Muốn đọc, mình phải "vượt tường lửa". Mình đoán, đó không phải là ý muốn của hai anh (anh Hùng và bạn Giao), tuy nhiên nếu sự cấm đoán đó đến từ hai người, mình vẫn khát khao tìm đọc.

Vẫn nhớ, khoảng 2014 và cho tới nhiều năm sau (tới khi tôi tạm ngưng viết blog, do chuyển cơ quan, tôi có laptop nhưng lại cho một em kiến trúc sư trong cơ quan), buổi sáng nào cũng vậy, khi tới cơ quan, tự tay pha một bình trà để uống cả ngày, sau đó, thú vui của tôi và điều đầu tiên tôi làm trong ngày, là nhấm nháp trang của bác Đông La Nguyễn Huy Hùng. Tới bây giờ thì càng khâm phục bác Đông La, vì những dự báo, thậm chí là cảnh báo (tôi nghĩ là tới mức khản cả cổ rồi) của bác Đông La cách đây nhiều năm, vẫn đã và đang là sự thực.

Giao với mình thì qua lại thường xuyên, nhưng giờ thì cũng phải trèo tường..

Trở lại chuyện bài viết Học tiếng Việt : "an yên" rồi "hữu móng" (loài hữu móng) của Giao.

Chữ "an yên", có lẽ gần đây mới xuất hiện, đầu tiên mình thấy, trên thơ của bạn học của mình. Ban đầu mình hơi khó chịu, vốn quê gốc mình là Trường Yên hay Tràng An (Ninh Bình) đã tồn tại trước tháng 7/1010, khi Lý Thái tổ dời đô về Đại La và đổi tên thành Thăng Long mà.

Sau thấy nhiều người khác cũng dùng "an yên", mình bớt "khó chịu", và mình nghĩ (và thực ra cũng đã viết trên blog này lâu rồi, hình như bài viết Đạo văn- Ngu gì không đạo thì phải) rằng từ ngữ là do quần chúng sáng tạo, tới một mức độ phổ biến nào đó thì được các nhà tự điển học (tự điển hay từ điển?) "phổ cập", tức là đưa vào từ điển. Trong bài viết ấy, mình dẫn chứng chuyện cụ Tô Hoài đưa vào trong văn học chữ "ông thợ dìu", vốn là "sáng tạo" của dân gian, để chỉ các ông thầy dạy khiêu vũ.

Hóa ra, việc "an-yên", Giao blog đã bàn tới nguồn gốc nó từ năm 2013, (và mình hoàn  toàn đồng ý):

"Có nghĩa là, trong tiếng Việt, từ lâu, hiện tượng lai ghép như dưới đây là bình thường, thói quen ngôn ngữ đã như vậy và ta không thấy có gì thắc mắc cả:

- xương cốt, máu huyết,...

- binh lính, sinh đẻ,... 

- ngày sinh nhật, ngày kị nhật, đêm dạ hội,...

- đi du lịch, đi du học,...

- đề xuất ra, sản xuất ra, đề cập đến, mục kính thấy,...

Vân vân.

2. Bởi vậy, gần đây, các từ mới xuất hiện, như "an yên" (đã "an" rồi lại còn "yên") thì cũng là bình thường ! Ngôn ngữ nó là vậy !

Rồi những từ lạ lẫm hơn, như "hữu móng" (không là "có móng"), thì cũng là bình thường ! Ngôn ngữ nó là vậy !

Chữ "an yên" là biểu hiện một trạng thái "an yên" ! Một trạng thái mang hơi thở thời đại của đầu thế kỉ 21 ! Phải là "an yên" mới thấy an yên thật, nó không giống với "bình an" đã có trong tiếng Việt".

Nhưng chữ "hữu móng" thì mình mới thấy lần đầu tiên.

Giao giải thích thêm được không (comment dưới bài viết này cũng được), sao lại bảo là "trạng thái hữu móng"?

Hay là Giao nói giỡn, mà anh già này chưa hiểu?

(Như mình đã nói, đây nên là một comment, nhưng vào trang của Giao không được).

 

-----------


Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

Để Gia Long xử Nguyễn Ánh xem sao?

 



Gia Long và Nguyễn Ánh là hai cái tên của một người, nhưng Gia Long còn có tý tẹo công lao, chủ yếu là công lao với dòng họ sau này, chứ lúc còn là Nguyễn Ánh thì tội cả đống. Dưới đây chỉ xét một tội, đó là năm 1787, Ánh mưu bán Đà Nẵng cho Tây bằng hiệp ước Versaille.

Năm 1471 vua Lê Thánh Tông mang quân Nam tiến, đánh vào kinh đô Chà Bàn (Vijaya) của nước Chiêm Thành và sáp nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào Đại Việt. Như vậy, đến thời Lê sơ, biên giới Đại Việt đã vượt qua Đà Nẵng và kéo dài đến đèo Cù Mông (con đèo nằm giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay).

Năm thứ 21 niên hiệu Hồng Đức (1490), Lê Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ lãnh thổ Đại Việt: “Mùa Hạ, tháng tư ngày mồng 5, định lại bản đồ trong nước: 13 xứ thừa tuyên, có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 30 nguyên, 30 trường”. Trên bản đồ đó, Đà Nẵng thuộc xứ thừa tuyên Quảng Nam.

Tóm lại, bằng việc vẽ lại bản đồ, vua Lê Thánh Tông đã công khai chủ quyền quốc gia và cương giới lãnh thổ Đại Việt, về phía Nam đã mở ra đến Phú Yên, và vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng đã thuộc về nhà Lê từ năm 1471.

Thế nhưng, năm 1783, Nguyễn Ánh ủy quyền cho Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) dâng "quốc thư" lên vua nước Pháp để cầu viện, nội dung gồm 14 điều. Cùng với "quốc thư", Ánh giao cả "quốc ấn" và cả con trai trưởng là hoàng tử Cảnh, bấy giờ mới 4 tuổi, cho Bá Đa Lộc để "thế chấp" đổi lấy súng ống và tiền bạc.  

Trong khi chờ đợi kết quả cầu viện đến từ nước Pháp, Ánh vào chầu vua Xiêm, ừ thì không phải để cõng "rắn", mà là "cõng" giặc Xiêm (được chưa?) sang chiếm lại Gia Định. Ngày 20/1/1785, Quang Trung đánh tan mấy vạn quân Xiêm bằng chiến công vang dội Rạch Gầm - Xoài Mút.

Do đường xá xa xôi cách trở, mãi đến ngày 28/11/1787 Hiệp ước Versaille mới được Bá tước de Montmorin, thay mặt vua Pháp ký với đại diện của Ánh là Giám mục Bá Đa Lộc. Theo đó, để có được 4 chiếc tàu chiến cùng 1.200 bộ binh, 200 pháo binh và 250 lính mọi từ phía Pháp, Ánh bán đứt Đà Nẵng, ngoài ra còn bù thêm cho Pháp đảo Côn Lôn và cho phép người Pháp độc quyền thương mại trong cả nước ...

Như đã nói ở trên, lúc bấy giờ, Đà Nẵng là đất của nhà Lê. Chúa Trịnh, các chúa Nguyễn hay bản thân Nguyễn Ánh, cho dù có tự xưng là "Nguyễn vương xứ Nam Hà", thì cũng vẫn chỉ là một phiên thần của nhà Lê. Mãi đến sau này, khi đưa quân ra Bắc dẹp Tây Sơn, thì Ánh vẫn còn phải dương chiêu bài "phù Lê" để "hợp thức hóa" và dễ ăn nói với dân Bắc Hà (và cả triều đình Mãn Thanh nữa).

Như vậy, cho dù Hiệp ước này không được thực thi, chỉ tính riêng âm mưu bán đất Đà Nẵng của nhà Lê, thì Ánh cũng đã phạm tội. 

Đó là tội gì?

Thời nay, không khó để nhận ra đó là Tội phản bội Tổ quốcVới tội danh này, Điều 108 bộ Luật Hình sự 2015 của nước CHXHCNVN quy định:

"Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình".

Nếu ở thời Lê, thì Bộ Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) năm 1483, điều 74 quy định: "Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài thì bị chém"; điều 88 quy định: "Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội; “Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ” (đầy đi làm khổ sai).

Ngoài ra còn có thể kết Ánh vào tội Mưu phản, do tội Mưu phản được Luật Hồng Đức định nghĩa "là mưu mô làm nguy đến xã tắc". Hơn nữa, đây là tội cao nhất, đứng đầu trong Thập ác, nên theo Luật Hồng Đức thì Ánh phải bị xử bằng hình phạt tương xứng, là "lăng trì" (tùng xẻo).

Tuy nhiên, dùng luật hiện nay hay dùng luật thời Lê mà xử tội Nguyễn Ánh thì sẽ lại có đứa thối mồm, bảo là dùng luật mới hay luật cũ là "không cận nhân tình", phải đặt "đương sự" vào đúng "bối cảnh lịch sử" bấy giờ mới phải đạo.

Được thôi, để cho Gia Long xử tội Nguyễn Ánh xem ra sao nhé!

Luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ ) do chính Gia Long ban hành năm 1813 quy định về "Tội mưu phản đại nghịch" tại điều 223, như sau:

"Phàm kẻ mưu phản không làm lợi cho đất nước, mưu hại xã tắc và đại nghịch không có lợi đối với vua, mưu phá hủy tôn miếu, sơn lăng và cung khuyết. Chỉ nhúng tay vào âm mưu mà không xét cầm đầu hay tòng phạm, đã hoặc chưa làm đều bị xử tử chém, bêu đầu.

Ông nội, cháu, cha con, anh em và người cùng ở một nhà...chú bác, con của anh em, không kể đã ở riêng hay chưa, quê quán khác nhau, nam từ 16 trở lên không kể bệnh nặng hay tàn phế đều đem chém hết..."

Nôm na tạm hiểu là không phân biệt chủ mưu hay tòng phạm, tru di tam tộc tất tần tật, cộng thêm những người hễ cứ ở chung nhà, trai, gái từ 16 tuổi trở lên, bệnh tật cỡ nào, cũng đều bị đem ra chém.

Như vậy với hành vi ký Hiệp ước bán đứt Đà Nẵng cho Pháp, dù đó mới chỉ là âm mưu (thể hiện trên giấy trắng mực đen rõ ràng), bất kể việc bán chác ấy hoàn thành hay không, theo bộ Luật (mới, cũ) nào thì cũng là trọng tội. Riêng theo luật Gia Long, thì Nguyễn Ánh phải chịu hình phạt chém bêu đầu, tru di tam tộc.

Vậy nhà ngâm kíu lật sử nào muốn giảm án cho Nguyễn Ánh, thì xin mời xuống âm phủ gặp Gia Long mà khiếu nại.

Thế nào Gia Long cũng phì cười, bảo: Đèo mẹ, thằng cu này còn "Bảo hoàng hơn vua".



-----------


Ảnh dùng tạm: Lãnh thổ Đại Việt năm 1480 thời vua Lê Thánh Tông
 (Ben Kiernan, 2017, Việt Nam, lịch sử từ sơ khai đến hiện tại, NXB Đại học Oxford)

 

-------------

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2025

Chuyện Gia Long và Hồng Bảo

 

 

Nguyễn Phúc Hồng Bảo sinh ngày 29/4/1825, là con trưởng của vua Thiệu Trị. Nghĩa là, cũng như Tự Đức, anh phải gọi Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) bằng cụ cố.

Tuy sinh sau Gia Long - Nguyễn Ánh đến hơn một lục thập hoa giáp, chính xác là 63 năm, nhưng "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh", Hồng Bảo giống hệt ông cố anh, ở cái đức "cõng rắn..." và "rước voi...", à mà thôi. 

Hồng Bảo lớn hơn người em thứ hai là Hồng Nhậm (tức là Tự Đức sau này) bốn tuổi. Cứ theo lẽ thường thì vua Thiệu Trị phải truyền ngôi cho con trưởng là Hồng Bảo, chứ không phải là Hồng Nhậm mới đúng bài đúng vở.

Thế nhưng, khi Thiệu Trị băng hà ngày 4/10/1847, bá quan, đứng đầu là đại thần Trương Đăng Quế tuyên đọc di chiếu của vua Thiệu Trị tại điện Cần-Chánh, thì cái tên bất ngờ được xướng lên, lại là Hồng Nhậm. Hồng Bảo ức quá, thổ ra hơn một đấu huyết, rồi ngã vật ra giữa sân chầu. Chuyện không nói nữa.

Hồng Nhậm kế thừa ngôi vua, lấy niên hiệu là Tự Đức, thành ra chúng ta biết đến vua Tự Đức.

Tự Đức, văn hay chữ tốt, tự nhận mình là "khí huyết vốn yếu đuối, thân thể thường gầy gò", còn thế phả họ Nguyễn Phúc chép rằng Hồng Bảo “là người khỏe mạnh, có học nhưng tính tình phóng túng, ít chịu gò bó vào khuôn phép". Vì vậy trong cuộc đời ngắn ngủi hai mươi chín mùa lá rụng của mình, anh đã hai lần bị triều đình Huế bắt, vì tội "mưu phản", giành lại ngôi báu.

Hồng Bảo bị bắt giữ lần đầu vào cuối năm 1851, trong khi đang sửa soạn trốn sang  Singapore để cầu cứu người Anh.

Thực ra thì ngay sau khi mất ngôi vua về tay Tự Đức chừng một năm thì Hồng Bảo đã tập hợp được lực lượng và vận động các cha cố người Pháp, lôi kéo các tín đồ Thiên Chúa giáo làm hậu thuẫn cho cuộc mưu phản, với lời hứa “sẽ không chỉ để cho tín đồ được tự do hành đạo mà còn dùng thế lực của mình để biến cả nước thành Thiên Chúa giáo” (thư của Giám mục Pellerin đề ngày 26/11/1848). Nhưng cơ duyên với người Pháp chưa tới, nên anh đành phải xoay sang cầu viện người Anh. Ngày xưa, năm 1785, cụ cố anh cũng vậy thôi, trong khi chờ tàu chiến và viện binh người Pháp, thì cụ tạm "cõng" vài vạn giặc Xiêm sang "cắn" đất nước mình cái đã. (Và đã bị Quang Trung - Nguyễn Huệ đánh cho "phiến giáp bất hoàn" trong trận Rạch Gầm- Xoài Mút).

Một người Pháp đương thời sống ở Huế, tên là Galy, cho biết: “Cuối năm 1851, nhân Tết âm lịch, ông (Hồng Bảo) bị bắt trong khi sửa soạn một cuộc đi trốn. Ông có ý định sang Singapore cầu viện người Anh. Một chiếc tàu nhỏ đổ ở dòng sông chảy ngang ngoài Kinh Thành. Còn chiếc tàu lớn sẽ chở ông qua Singapore thì đậu ở một cửa bể lân cận. Tàu và ghe thuyền bị tịch thu, khí giới và các thứ cần dùng đã tích trữ khiến người ta không thể nào không nghi ngờ về ý định của ông được".

Khi bị quan quân triều đình Huế phát hiện, Hồng Bảo bèn xõa tóc, mặc áo tang, ẵm đứa con trai tên là Nguyễn Phúc Ưng Đạo vào triều, khóc lóc thú nhận tội trạng trước chú em còi cọc Tự Đức, để mong được tha tội.

Tuy được Tự Đức ân xá và đối xử khá là tử tế nhưng Hồng Bảo không thể nguôi ngoai quên đi ngai vàng ngôi báu? Anh tiếp tục lén lút chiêu mộ bè đảng, uống máu ăn thề, cử người thân tín sang Xiêm La và Căm bốt cầu viện. Đầu năm 1854, thì anh bị bắt lần thứ hai và bị giam vào nhà đá. Lần này, triều đình kết án anh tội "mưu phản", hình phạt là lăng trì (nghĩa đen, là xẻo từng miếng thịt một cách chậm rãi). Nhưng chú em Tự Đức vẫn còn thương ông anh thiệt thòi vì bị mất ngôi, nên giảm xuống án chung thân. Vài hôm sau, (sử chép rằng) Hồng Bảo tự thắt cổ ở trong ngục, nhưng hỡi ôi, người đời khẳng định rằng anh bị chúng nó giết.

Mặc dù chết rồi, nhưng Hồng Bảo (và con trai trưởng của anh là Ưng Đạo) vẫn bị vĩnh viễn khai trừ ra khỏi dòng họ Nguyễn Phúc, đổi sang họ mẹ là họ Đinh. Đinh Đạo sau này (năm 1866), cũng bị triều đình Huế xử tử nốt, do "dính dáng", mà thực ra là chả dính dáng gì, đến cuộc khởi nghĩa Chày Vôi, khởi đi từ công trình xây dựng lăng Vạn Niên, còn gọi là lăng Tự Đức. Câu ca dao "Vạn Niên là Vạn Niên nào, thành xây xương lính, hào đào máu dân..." từ đó mà ra.  

Trở lại chuyện Hồng Bảo, như đã nói ở trên, Hồng Bảo tuy sinh sau cụ cố Gia Long - Nguyễn Ánh đến hơn sáu mươi năm cuộc đời, nhưng lại thừa kế được tuyệt đỉnh công phu của cụ cố, đặc biệt là võ công "cõng rắn...", "rước voi...", à mà thôi.

Cụ cố anh đã từng mượn hơi cố đạo Pháp để lấy lại ngôi báu, thì anh cũng. Chẳng những noi gương cụ cố, anh lại có phần "hậu sinh khả ố" hơn cả tiền nhân.

Cụ cố nhà anh dù đã có tài "cõng" Pháp "rước" Xiêm và "cõng" gạo nuôi Thanh nhưng dường như chỉ với một tầm nhìn thiển cận. Còn anh, ngoài Pháp và Xiêm, anh còn có thêm những bước đi táo bạo. Anh mở rộng phạm vi cầu viện từ đế quốc Anh xa tít đến vương quốc Cao Miên hàng xóm.

Chúng bảo cụ cố nhà anh có công, thử hỏi công lao "cõng, rước" của anh há kém cạnh gì cụ cố?

Thế mà, thương thay, số anh đen, quả thật đen như đôi mắt chị Dậu trong đêm ba mươi âm lịch!

Anh bị chúng thủ tiêu ở trong tù, vợ anh, con anh sau đó, rồi cũng bị chúng xử chém.

Thật oái oăm, chúng lôi anh (và cả con anh sau này) ra kết tội "Mưu phản". Mà theo điều 224 bộ Hoàng triều luật lệ, thì: "Phàm kẻ mưu phản, gài mưu trong nước, nghe lệnh nước ngoài, chỉ là cùng mưu không chia cầm đầu hay tòng phạm thì cũng đem chém cả..."

Khốn nạn thân anh, bộ luật này còn có tên là bộ luật Gia Long, bởi cụ cố anh đã đích thân ban hành nó, vào năm 1813.

Cho nên, trước khi anh chết, thế nào anh cũng phải hét lên, ít nhất đôi lần:

Tao với cụ cố, đã biết thằng nào tội to hơn thằng nào?

Thằng nào tội to hơn thằng nào???


 

----------------


Thứ Ba, 11 tháng 11, 2025

Bào chữa cho Pétain và Gia Long

 


1. Pétain

Thống chế Philippe Pétain, người từng được tôn vinh là anh hùng của nước Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới lần I, do đã chỉ huy quân đội Pháp bảo vệ thành Verdun trước cuộc tấn công dữ dội của quân Đức vào tháng 2/1916, trận chiến này đã gây ra thương vong cho khoảng 250.000 người ở mỗi bên nhưng sau cùng, người Pháp đã chiến thắng.

Hai mươi bốn năm sau, cuộc chiến tranh thế giới lần II nổ ra, tháng 5/1940, quân Đức xâm lược Pháp một lần nữa. Sau cuộc gặp với Hitler, Pétain đã công khai kêu gọi hợp tác với Đức quốc xã và chính phủ Vichy do Pétain cầm đầu đã ký Hiệp định đình chiến 22/6/1940, theo đó, Đức quốc xã được quyền kiểm soát đến 3/5 lãnh thổ nước Pháp. Ghi chép của đại sứ Đức năm 1942 cho thấy chính quyền Vichy "sẵn sàng loại bỏ người Do Thái bằng mọi cách, mà không cần quá ồn ào".

Phong trào Kháng chiến do tướng Charles de Gaulle lãnh đạo ra đời. Phía bên kia là Đức quốc xã và những kẻ hợp tác với Đức.

Vào tháng 8 năm 1944, quân Đức đã đưa Pétain và các bộ trưởng Vichy khác chạy sang Đức. Một chính phủ danh nghĩa của Pháp được thành lập tại một lâu đài cũ ở Sigmaringen. Chính phủ này nhanh chóng sụp đổ và không lâu sau, thống chế Pétain bị quân Đồng minh bắt đưa trở về Pháp để xét xử vì tội phản quốc.

2. Gia Long

Gia Long khi chưa lên ngôi vua, thì được gọi là Nguyễn Ánh.

Năm 1784, Ánh sắm "cây vàng cây bạc" vào chầu vua Xiêm (bunga mas dan perak, cống phẩm tượng trưng cho sự thần phục mà các chư hầu phải dâng lên vua Xiêmxin đưa quân sang đánh Tây Sơn. (Tổng cộng, Ánh đã 6 lần dâng cây vàng cây bạc lên vua Xiêm và cũng giữ luôn "kỷ lục" là người Việt đầu tiên và duy nhất bái Xiêm là Thiên triều)

Vua Xiêm cử Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem mấy vạn quân thủy bộ cùng với tàn quân của Nguyễn Ánh tiến về Gia Định. Quân Xiêm đi đến đâu cướp giết đốt phá đến đấy, tàn ác đến nỗi chính Ánh phải thừa nhận và sau này, sử nhà Nguyễn cũng không lờ đi được.

Đêm 19 rạng ngày 20/1/1785, Nguyễn Huệ đem quân đánh trận Rạch Gầm - Xoài Mút lừng danh, đập cho liên quân Xiêm-Ánh một trận tơi tả không còn mảnh giáp (phiến giáp bất hoàn), Ánh lại phải đu càng ngoại bang.

Năm 1787, Ánh ký Hiệp ước Versailles với nước Pháp, định đổi Đà nẵng, Côn Lôn lấy 4 chiếc tàu chiến cùng 1.200 bộ binh, 200 pháo binh và 250 lính mọi... để đánh nhau với quân Tây Sơn. Cho dù hiệp ước này sau đó không được thực hiện, nhưng sự bất thành của nó hoàn toàn không phải là do ý chí chủ quan của Ánh. Nên nhớ, lúc bấy giờ Ánh chưa làm vua, thì đất đai bờ cõi thuộc sở hữu của vua Lê chứ không phải là của Ánh. 

Năm 1789, quân Thanh chiếm đóng thành Thăng Long, trong khi Nguyễn Huệ lãnh đạo quân dân đánh tan quân xâm lược thì Nguyễn Ánh lại tìm cách nuôi giặc. Sách Đại Nam thực lục ghi : “Mùa hạ năm Kỷ dậu, vua nghe tin người Thanh đem quân Lưỡng Quảng vì nhà Lê mà đánh giặc Tây Sơn, bèn sai sứ thần là bọn Phan Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang Thanh và đem 50 vạn cân gạo giúp lương cho quân [Thanh]. Gặp bão đắm cả ở biển lâu không nghe tin tức".

Như vậy, khi nói "Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà" thì điều đó là tuyệt đối đúng, còn có gì để bàn cãi?

Thế còn Gia Long khi lên làm vua thì có công gì? Nay có người bảo, Gia Long có công lớn nhất, là đã thống nhất đất nước sau hàng trăm năm nội chiến Đàng ngoài, Đàng trong. Người khác thì nhìn ra người anh hùng Quang Trung vắn số mới là người tả xung hữu đột, đánh Nam, dẹp Bắc, diệt quân xâm lược thống nhất đất nước. Nguyễn Ánh chỉ là người tiếp quản cơ đồ mà Quang Trung để lại.

Liệu việc thống nhất đất nước có là mục tiêu mà Nguyễn Ánh đặt ra? Khi mà Ánh cho chở gạo ra Bắc giúp quân xâm lược Mãn Thanh. Hành vi này thể hiện ý chí của Ánh chỉ mong quân Thanh chiến thắng ở Đàng ngoài, dù để chiếm đóng lâu dài hay (dưới danh nghĩa) dựng lại vua Lê, thì Ánh vẫn còn cơ may làm chúa ở Đàng trong. Giả sử sự việc xảy ra đúng như mong ước của Ánh, thì đất nước tồn vong còn chưa biết, nói gì đến thống nhất? Việc chinh phạt hết quân Xiêm rồi đến quân Thanh rõ ràng là công lao của Nguyễn Huệ, trong khi đó Ánh chỉ nhăm nhăm làm việc ngược lại, là cố rước quân xâm lược nhằm chia cắt đất nước, từ đó tìm cơ hội phục hồi lợi ích dòng họ.

Người ta lại bảo Gia Long "có công đặt quốc hiệu Việt Nam". Nói cho chính xác thì Gia Long chỉ có công "xin" chứ đã đủ tuổi để "đặt" quốc hiệu đâu? Năm 1802, Gia Long lên ngôi, soạn biểu, sai sứ mang sang triều đình Mãn Thanh, chả hiểu sao lại xin đặt quốc hiệu là Nam Việt, (chứ không phải là Việt Nam đâu nhé). Nam Việt đã là tên nước ta đã có từ 2000 năm trước rồi, tức là từ thời Triệu Đà (207-TCN)...

Thực tế, người thực sự "có công đặt quốc hiệu Việt Nam" chính là Càn Long của nhà Mãn Thanh, vì đây là cái quốc hiệu do chính y "ban" cho Gia Long. Cũng cần phải nói thêm, hai chữ Việt Nam dùng để chỉ đất nước ta cũng đã xuất hiện trong các văn tự, bi ký của tiền nhân nhiều triều trước rồi, đâu phải chỉ đến khi Càn Long "ban cho" Gia Long thì mới có(*).

3. Bào chữa

Ngày nay, để bào chữa cho Nguyễn Ánh, vài nhà ngâm kíu sử nước ta lý luận rằng trong bối cảnh lịch sử hai trăm mấy chục năm trước, thì việc Nguyễn Ánh "cõng" giặc về đất nước là việc sống còn, là việc "chẳng đặng đừng" thôi mà, sao lại kết tội "cõng rắn cắn gà nhà" (!?).

Trong phiên tòa kéo dài từ ngày 23/7 đến 15/8 năm 1945, để bào chữa cho Thống chế Philippe Pétain, các luật sư cũng đã lập luận tương tự rằng "trong hoàn cảnh bắt buộc, Pétain đã làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích của Pháp và trên thực tế đã giúp nước Pháp tồn tại". 

Tuy vậy, với 20 phiếu thuận và 7 phiếu chống, Pétain bị Tòa án nước Pháp kết tội phản quốc, âm mưu lật đổ nền Cộng hòa và sỉ nhục nước Pháp (indignité nationale) và bị kết án tử hình, tịch thu tài sản. Sau đó, tướng de Gaulle với tư cách là Tổng thống lâm thời, xét tới công lao của Pétain với đất nước trong Thế chiến I, đã giảm án cho ông xuống thành tù chung thân.

 

 

-----------------

(*) Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2 chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rõ ràng trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Hai chữ "Việt Nam" còn xuất hiện trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). 


Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

Nhị đào sát tam sĩ

 


Chuyện chép lại từ Đông chu liệt quốc:

Nước Tề có ba dũng sĩ Công tôn Tiệp, Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử kết làm anh em, tự xưng là “tam kiệt”. Bọn “tam kiệt” cậy mình có công to và sức khoẻ, vẫn thường khinh bỉ các quan triều thần, nhiều khi ở trước mặt vua nước Tề (Tề Cảnh công) mà ăn nói hỗn láo, chẳng có lễ phép chút nào cả.

Một hôm, vua nước Lỗ là Lỗ Chiêu công thân hành sang triều kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày tiệc để thết đãi.

Bên nước Lỗ thì Thúc Tôn Nhược làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh (tể tướng nước Tê) làm tướng lễ. Bọn “tam kiệt” chống gươm đứng ở dưới thềm, tuy chầu rìa nhưng vẫn kiêu căng ngạo mạn, không coi ai ra gì. Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công rượu đã ngà ngà say.

Tể tướng Án Anh tâu rằng: Trong vườn quả kim đào đã chín, xin trẩy để chúc thọ hai vua.

Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho Án Anh đi hái:

Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công: Đời cha tôi ngày xưa, có người Đông Hải, đem cái hột đào đến để dâng, nói là giống “Vạn thọ kim đào”, nguyên giống ở Độ Sách sơn ngoài biển, cũng gọi tên là “Bàn đào” nữa. Nước tôi trồng đã hơn ba mươi năm, cành lá rất tốt, nhưng chỉ khai hoa mà không kết quả; mãi đến năm nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quý lắm, nay nhân có nhà vua tới đây, xin đem ra để dâng nhà vua.

Lỗ Chiêu công chấp tay cảm ơn, lát sau thì Án Anh đưa người giữ vườn bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to bằng cái bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương bay ngào ngạt, thật là một thứ của quí.

Tề Cảnh công hỏi rằng: Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à ?

Án Anh nói: Còn ba, bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có sáu quả.

Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc, đến dâng trước mặt Lỗ Chiêu công. Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả đào, thấy ngon ngọt lạ thường, nên ngợi khen mãi không ngớt.

Đến lượt Tề Cảnh công, cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả đào, ăn xong, lại bảo quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Nhược rằng :

Thứ đào này quí lắm. Quan đại phu có tiếng là người giỏi, nay lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả.

Thúc Tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng: Xét ra, tôi còn kém quan tướng quốc (trỏ Án Anh) muôn phần. Quan tướng quốc trong thì sửa sang chính trị, ngoài thì khiến cho chư hầu phải phục, có công to lắm, vậy thứ đào này nên nhường để quan tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm.

Tề Cảnh công nói: Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người một chén rượu và một quả đào.

Án Anh và Thúc Tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy.

Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: Trong mâm còn hai quả đào, chúa công nên truyền lệnh cho các quan, người nào có công lao nhiều thì ra mà lĩnh lấy quả đào ấy.

Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ cho các quan rằng: Trong hàng các quan ai cũng có công lao nhiều, đáng ăn quả đào này thì cho được đứng ra mà tâu. Đã có quan tướng quốc xét công lao mà cho đào.

Công tôn Tiệp đứng ra tâu rằng: Ngày xưa tôi theo chúa công đi săn ở Đông Sơn, ra sức giết được hổ thì công ấy thế nào ?

Án Anh nói: Cái công bảo giá to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa !

Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn Tiệp lãnh lấy rồi lui xuống.

Cổ Gia Tử đứng ra mà tâu rằng: Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi trước tôi giết được con giải yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến chúa công nguy mà lại yên, công ấy thế nào?

Tề Cảnh công nói: Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu không có tướng quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật là một kỳ công trên đời, đáng uống rượu và ăn đào lắm!

Án Anh vội đưa rượu và đào cho Cổ Gia Tử.

Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng: Tôi phụng mệnh chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt sống được hơn năm trăm quân Từ, vua Từ cùng vua Đàn, vua Cử đều sợ hãi mà phải xin hoà, tôn chúa công lên làm chủ, cái công ấy có đáng ăn đào hay không?

Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: Cái công của Điền Khai Cương ví với hai tướng trước, lại còn gấp mười, nhưng nay hết đào rồi thì hãy tạm thưởng cho một chén rượu, đợi đến năm khác sẽ hay.

Tề Cảnh công bảo Điền Khai Cương rằng: Công nhà ngươi to lắm, tiếc thay nói chậm, thành ra hết cả đào.

Điền Khai Cương chống gươm nói rằng: Giết hổ và chém giải, chẳng qua là những việc nhỏ mà thôi. Ta đây xông pha tên đạn ở ngoài nghìn dặm, biết bao nhiêu công khó nhọc, lại không được ăn đào, chịu nhục ở trước mặt hai vua, để tiếng cười về mai hậu, còn mặt mũi nào mà đứng trong triều đình nữa!

Nói xong, đâm cổ chết ngay.

Công Tôn Tiệp giật mình, cũng rút gươm mà nói rằng: Chúng ta công nhỏ mà được ăn đào, họ Điền công to mà không được ăn. Ta ăn đào mà không biết nhường, sao gọi là liêm; thấy người ta chết mà không theo, sao gọi là dũng?

Nói xong, cũng đâm cổ chết.

Cổ Giả Tử kêu rầm lên rằng: Ba chúng tôi kết nghĩa với nhau, thề cùng nhau sống chết, nay hai người đã chết, ta còn ham sống làm gì!

Nói xong, lại cũng lấy gươm đâm cổ chết.

Từ chuyện này, Trung Quốc có thành ngữ 二桃杀三士 "Nhị đào sát tam sĩ", nghĩa là hai quả đào giết ba tráng sĩ.

Kể ra cũng lạ, ba thằng tráng sĩ, cậy công, cậy khéo, cậy khỏe, khinh bỉ quan chức, coi thường cả vua, không chết vì hổ dữ, vì yêu quái, giặc hại cũng không chết. Thế mà lại chết vì hai quả đào. 

Mà thật oái oăm, đào này lại có tên là đào Vạn Thọ.


-----------


Thêm: Xem ra mấy anh quân tử Tàu này thua xa cụ Trạng bên mình.

Truyện Dân gian Việt Nam kể:

Cụ Trạng Quỳnh thấy người ta dâng mâm đào Trường Thọ lên vua, điềm nhiên bốc ăn trước, làm cả triều kinh hãi. Vua giận định chém, Quỳnh đòi phải chém người dâng đào cho vua trước đã, vì đào này là đào đoản thọ chứ không phải trường thọ. 

Vua phì cười, và thấy Quỳnh nói cũng có lý, nên tha.