Entry này có thể coi là
một bổ túc cho bài Câu đối cụ Thợ Dìu,
ai ưng thì mở ra đọc kèm, như ăn mắm với rau. Nhưng, xin đặt cái tựa như trên
để gây sốc.
1. Thêm một câu đối nửa Nôm nửa Hán
Hôm trước đã giới thiệu một câu đối kỳ tài của cụ Tam
Nguyên Yên Đổ, viết mừng một ông người làng mần nhà mới:
“Nhất cận thị, nhị cận
giang, thử địa tích tằng xưng tị ốc
Giàu ở làng, sang ở nước,
nhờ trời nay đã vểnh râu tôm”.
Tưởng đã là độc nhất vô nhị. Nhưng còn một câu khác cũng
tài tình không kém, và được cho là
do chính vua Khải Định làm ra. Nhân vừa đọc lại cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng
Sển, xin dẫn ra đây:
"Xuân xanh tuổi ngoài đôi
chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi
năm canh ngôi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi nằm rạp
thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng rạng ra rồng. ngông ra phết cóc biết chi tồi,
miệng én đưa qua mùi gió thoảng.
Quốc gia lịch tứ thiên dư, do
truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật Tứ Quân, như Trần Quốc Tuấn, như
Phạm Công Thượng tướng quân, như Bạch Vân phu tử, như ngự sử Lê Cảnh Tuân, như
công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn thời chi thế, thế chi sử, khỉ nhưng nhiên
phủ, thần long đắc vũ tiện vân đằng”.
Trong cuốn sách nói trên (chương 17), cụ Vương cho biết, cụ
lấy tư liệu từ cuốn "Giai thoại
văn chương Việt Nam” của nhà văn Thái Bạch do nhà Sống Mới in năm 1972
tại Saigon.
Cụ Vương bình luận, và cũng có chút thắc mắc:
“Vế trước rặt nôm, vế sau ròng
chữ vừa duyên dáng vừa tài tình, vừa có một khiếu trào lộng không ai hơn. Nếu
phải đó là của ngài Bửu Đảo, sau nầy là Hoàng Tôn Tuyên Hoàng đế, trong Nam
thường biết là ông vua Khải Định, thì đáng phục biết mấy, nhưng tại sao khi
trên đất Pháp, khi đốc lý Paris xin một câu ghi trong quyển sổ vàng, ông đứng
cả canh mà rặn không ra?”.
Trong khi cụ Vương có ý chê hành vi của cụ Khải Định trên
đất Pháp thì bên Tàu,
2. Cụ Nguyễn Du “bênh” người đẹp Dương Quý Phi
Nhân vật Dương Quý Phi có vài điểm tương đồng nhân vật Vương
phi Đặng Thị Huệ bên ta.
Dương Quý Phi bị coi là mầm mống sinh ra đại loạn, gây tai họa
cho nhà Đường bên Tàu. Bên ta, Đặng Thị Huệ bị coi là “tác giả” của nhiều
biến cố thời vua Lê chúa Trịnh, dẫn đến cơ đồ hơn hai trăm năm của nhà Trịnh sụp đổ.
Dương Quý Phi có anh trai là Dương Quốc Trung, còn Đặng Thị
Huệ có em trai là Đặng Lân (Đặng Mậu Lân). Trung và Lân giống nhau ở
chỗ bị đánh giá là chuyên cậy thế vua chúa làm những việc vô đạo, xa
hoa, càn rỡ, gây ra nạn “kiêu binh”, làm tổn hại tới vận mệnh triều
đình.
Kết cục Dương Quý Phi buộc phải thắt cổ mà chết, còn
Đặng Thị Huệ thì tự uống độc dược mà chết.
Bài thơ Dương Phi Cố Lý, cụ Nguyễn Du viết vào năm 1789, trên đường đi sứ Tàu (Bắc
hành tạp lục), chỉ cách vài năm sau cái chết của Đặng Thị Huệ.
Phiên
âm Hán Việt:
Sơn
vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến
thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự
thị cử triều không lập trượng,
Uổng
giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu
tiêu Nam nội bồng cao biến,
Mịch
mịch Tây Giao khâu lũng bình
Lang
tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông
phong thành hạ bất thăng tình
|
Nghĩa:
Núi
mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
Nghe
nói đây là quê của Dương Phi.
Chỉ
tại triều đình như bầy phỗng đá,
Ngàn
năm cứ đổ oan cho sắc đẹp
Cung
Nam buồn cỏ bồng mọc ngập lối
Tây
giao vắng, gò nay thành bình địa.
Phấn
lạt hương phai biết tìm đâu,
Gió
Đông dưới thành gợi nỗi niềm.
|
Trong bài có hai câu Tự thị cử triều không lập trượng,Uổng giao
thiên cổ tội khuynh thành. Khác với “dư luận xã hội”,
cụ Tiên Điền không “ném đá” Dương Quý Phi mà chỉ rõ, nhà Đường mất
nước là do đám quan lại triều đình quanh năm bày mưu tính kế, ăn hại đái
nát, nhưng đến lúc cần hành động thì hóa ra toàn là tượng gỗ.
Không biết khi viết bài này, cụ Tiên Điền có liên tưởng
đến trường hợp Đặng Thị Huệ với họ Trịnh hay không?
Soi trên mạng có bản dịch của cụ Quách Tấn, xin trân
trọng giới thiệu:
Mây ngàn hoa bến nước lung
linh,
Dương Quí Phi xưa đất ấy sinh.
Bởi nỗi cả triều tài phỗng đá,
Ðể cho muôn thuở tội nghiêng
thành.
Cấm cung bỏ phế, bồng hiu hắt,
Mồ cũ san bằng, cảnh vắng tanh.
Gió lạnh dưới thành ngơ ngẩn
bóng,
Tìm đâu cho thấy cánh hoa tàn.
Còn dưới đây là cụ Lý tự dịch. Cũng
xin chỏng gọng giới thiệu:
Phiên
âm:
Sơn
vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến
thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự
thị cử triều không lập trượng,
Uổng
giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu
tiêu Nam nội bồng cao biến,
Mịch
mịch Tây Giao khâu lũng bình,
Lang
tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông
phong thành hạ bất thăng tình
|
Dịch
(1)
Bờ
hoa rực rỡ núi đùa mây
Thấy
bảo Dương phi sinh đất này
Một
thủa triều đình toàn tượng đứng
Ngàn
năm người ngọc chịu tai bay
Lặng
ngắt Tây Giao gò hóa phẳng
Đìu
hiu Nam nội cỏ mọc dày
Cánh
hồng tàn rụng tìm đâu thấy?
Dưới
thành duy có gió Đông hay...
|
Đang
cáu, dịch thêm phát nữa (2):
Lưa
thưa mây núi, bến hoa ngời
Quê
em đó phỏng? Ái thương ôi!
Triều
đình mà lú toàn tượng đái
Thành
nghiêng hồn lở đứa hoa (k)hôi?
Đìu
hiu Nam nội dày đặc cỏ
Lặng
ngắt Tây Giao lộn cả đồi
Mây
trôi bèo dạt về đâu nhỉ?
Gió
Đông sùi sụt mãi chưa nguôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét