Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Báo xưa viết về ngày 19-8-1945 - Tuần báo Trung Bắc chủ nhật, ngày 26-8-1945

 


Trang nhất tờ Trung Bắc chủ nhật ra ngày 26-8-1945 in ảnh với ghi chú: "Hai ngày 17 và 19-8-1945, hơn ba chục ngàn người biểu tình ủng hộ cuộc dân quân  cách mạng do Việt-Minh lãnh đạo"


Ngày 26-8-1945, Báo Trung Bắc chủ nhật đã dành trang đúp (trang rộng gấp đôi khổ thông thường) để đưa tin về cuộc Cách mạng 19-8.

Bài báo mang tiêu đề in khổ lớn: Cuộc Khởi-nghĩa đã bùng nổ dưới quyền lãnh đạo của Việt-Minh và được toàn-thể đồng-bào ủng hộ.

Dưới đây, xin trích lại một phần từ bài báo đó (ảnh dưới):

Cuộc biểu tình ngày chủ nhật 19 Aout

Anh em Việt Minh đã hoạt động cả đêm 18. Sáng chủ nhật, các nhà trong các phố lớn đều treo cờ đỏ sao vàng. Từ chín giờ sáng, các tầng lớp dân chúng hợp thành đoàn đi rất trật tự đến Nhà Hát lớn để dự cuộc biểu tình và nghe lời tuyên bố chương trình của mặt trận Việt- minh.

Cuộc biểu tình này tổ chức thực chu đáo, đông hơn cuộc biểu-tình hôm thứ sáu. Người ta ước có tới hai mươi vạn người. Dù là dân chúng chưa quen mấy, mà các hàng ngũ đã phân minh, đi đứng đã trật tự; suốt từ nhà Hát lớn đến Hàng Khay, đông nghịt những người, những cờ đỏ sao vàng, những nắm tay giơ lên thề trung thành với mặt trận Việt-Minh và triệu người như một, thề chống với mọi cuộc xâm lăng. Thấy cái cảnh nhân-dân quyết tâm ủng hộ mặt trận Việt-Minh như vậy hầu hết các người đi dự cuộc biểu tình này đề rỏ nước mắt đứng trầm ngâm hai phút để truy niệm anh hồn nhũng chiến-sĩ Việt-Minh trong sáu năm trời nay đã nằm gai nếm mật, chiến đấu cho nền độc-lập của nước mà bất hạnh không được trông thấy sư thành công vẻ vang này của dân quân cách- mạng dưới quyền lãnh đạo của Việt-Minh. Mấy chị thấy vậy ngất đi vì quá cảm động; hai bác sĩ được mời vào cấp cứu. Sau khi cử nhạc, làm lễ chào cờ và tuyên bố chương trình Việt-Minh về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo-dục, ngoại giao, đối với các tầng lớp nhân dân, đoàn biêu tình tuần hành thị oai ở các phố và ngay ngày hôm đó đã chiếm đóng phủ Khâm-sai và tòa Thị-chính. Sau đó, cuộc biểu tình tiến tới trụ sở Bảo-an-binh.

Đến tận mười giờ đêm, thành phỗ Hà-nội có vẻ tấp nập như một ngày hội lớn. Trật tự lại khôi phục. Ủy ban ngoại-giao của Việt -Minh đã điều đình được thắng lợi với nhà chức trách Nhật-bản. Và một chính-phủ cách-mạng lâm-thời đã thành lập, khôi phục lại trật tự, thiết quân luật để bảo vệ sự an toàn cho nhân dân, và suốt đêm suốt ngày 19-8 Việt-Minh huy động việc hộ đê giúp sức với nhân viên nhà Công chính.

Ô-tô và xe điện chạy xuốt (suốt) đêm để tải người ra giữ đê Hà-nội thẩm lậu và đem người vào Hà -đông để giữ đê Đông-lao.

Sư tham gia hăng hái của quốc dân đồng bào với cuộc dân quân cách mạng do Viêt-Minh lãnh đạo, cái thái độ đường-hoàng cương quyết của mặt trận Việt-Minh, đối với tình thế nghiêm trọng của nước ta lúc này đã làm cho vững lòng nức chí tòan thể dân chúng và giờ này, toàn thể dân-chúng hơn cả khi nào hết - thật đã hoàn toàn tin tưởng ở sự thành công.

Đẹp thay là sức sống dồi dào của dân tộc Việt-Nam đương vươn tới một cảnh đời tự lập xứng đáng với cái quá khứ oanh-liệt còn ghi chép trong Quốc-sử!

Tùng-Hiệp



Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình và hưu quan bộ Hoạch

 


Bộ Hoạch, theo quan sát của mình, quả là một cái ổ ăn hại và nói phét. Dẹp đi là phải.

Lại nói về cái Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình ở núi Cánh Diều (còn có tên là Ngọc Mỹ nhân), ừ thì trước đây ô nhiễm là có thật. Nhưng mà Trung Quốc thì cho không nhà máy, mà công nghệ của họ, thời nông dân họ nhà nhà đốt lò nung thép, thì cũng chỉ đến vậy, chưa có khái niệm lọc bụi.

Dân Ninh Bình không biết có ai chết vì ô nhiễm hay không, nhưng những người giỏi thì tận dụng ngay cái khói bụi ấy mà ...làm giàu.

Trong khi đó thì ở Anh, ô nhiễm không khí là nguyên nhân của 10% tổng số ca tử vong, còn ở Trung Quốc thì là 17%, (Russell-Jones, Robin, 14/6/2017). Một báo cáo khác, năm 2015, cho rằng ô nhiễm không khí giết chết 29.000 người mỗi năm ở Anh.

Trung Quốc cho không, còn đặt nhà máy ở đâu là do mình chọn, chính UBKH nhà nước (tiền thân của bộ Hoạch) thỏa thuận chứ ai. Núi Cánh Diều được chọn vì vận chuyển (chủ yếu là than đá) quá thuận lợi, một bên sông, một bên đường sắt, lại tiện việc bảo vệ trước bom đạn Mỹ lúc bấy giờ (1970-1971). Phát điện vào năm 1974, nhà máy trở thành một trong 3 nguồn điện chủ yếu của lưới điện miền Bắc.

Thế mà, một ông cựu Thượng thư bộ Hoạch, xuất thân ngành Khoa học địa chất lại mượn danh các cụ dân Ninh Bình, kể tào lao trên Facebook rằng TQ nó cắm cái ống khói vào "chỗ hiểm" của Ngọc Mỹ nhân. Kể cũng tài, ông nhìn đâu cũng thấy "chỗ hiểm", nhìn đâu cũng ra "hãm hiếp".

Thực tế, ống khói nằm cách chân núi nhẽ đến vài trăm mét, và có muốn cắm vào "chỗ hiểm" cũng chả được. Với lại cái "chỗ hiểm" (hay chỗ sướng) ấy hoàn toàn không phải là tử huyệt hay long mạch. Tử huyệt là phải ở "cổ", ở "tim", hay ở chỗ nào đó mà cắm vào đấy thì sẽ "đứt long mạch" mà "chết". Chứ còn cắm vào chỗ kia, thì...

Tay hưu quan này còn bịp bợm bằng cách cố tình lấy cái ảnh chụp từ phía Cầu Yên để chứng minh cái ống khói Nhà máy nó cắm vào..."chỗ hiểm". Chứ nếu chụp ở góc khác, phía đầu cầu Non Nước chẳng hạn, thì thấy ngay, ống khói nằm ngoài chân núi.

(Tay này nổi tiếng là thân Nhật).





Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

Kinh Kha - Anh hùng hay kẻ ăn hại?

 


Nhớ lại nhiều năm trước, Trâu giáo sư nức nở khen Cù Hà mã là "anh hùng Kinh Kha thời hiện đại". Nghe cũng hoang mang lắm lắm.

Bèn đọc lại Đông Chu liệt quốc và Sử ký Tư Mã Thiên để biết Kinh Kha là người thế nào, anh hùng hay ăn hại.

Thời Chiến quốc, Trung quốc lúc ấy bao gồm 7 nước lớn (thất hùng): Hàn, Ngụy, Sở, Tần, Tề, Triệu, Yên và vài nước nhỏ khác. Kinh Kha vốn là người nước Tề, lưu vong sang nước Vệ. Kha tự cho mình là giỏi về kiếm pháp nên đem kiếm thuật ra thuyết vua nước Vệ. Vua nước Vệ làm ngơ, Kha lại chạy tiếp sang nước Yên.

Ở nước Yên, Kha vẫn thất nghiệp, hay ra chợ ngồi uống rượu chịu cùng Cao Tiệm Ly, một tay chuyên chơi đàn trúc. Rượu say Cao Tiệm Ly đàn, còn Kha thì hát, hát xong thì  khóc. Khóc rồi than thở, cho là thiên hạ không biết "bố mày là ai".

Bấy giờ Tần đã thôn tính xong 2 nước chư hầu là Hàn và Triệu, ấp ủ mưu đồ chiếm nước Yên. Thái tử (con vua) nước Yên, tên là Đan, muốn chống lại mưu đồ ấy bằng một kế hoạch ám sát vua Tần (Tần Doanh Chính, sau trở thành Tần Thủy Hoàng). Đan tiếp xúc Điền Quang, một giang hồ già và hết thời, nhờ Quang tuyển đặc vụ có đủ trí, dũng và tài - để thực hiện điệp vụ này.

Khi xem mặt một số "ứng viên" do Đan nuôi sẵn trong nhà, Điền Quang chê tuốt tuồn tuột. Sau cùng, Quang đề xuất chọn đàn em Kinh Kha, vì tay này khác đám kia ở chỗ "mừng, giận không để lộ ra sắc mặt". Thêm một lý do khác nữa mà Đông Chu liệt quốc cho biết: Điền Quang cũng chính là người chuyên bỏ tiền trả nợ nhậu cho Kinh Kha.

Đan mừng lắm, cấp luôn xe của mình cho Quang ra chợ gặp Kha đang nhậu nhẹt đàn hát cùng Cao Tiệm Ly. Ly biết ý, lảng đi để cho hai tay giang hồ gặp riêng. Điền Quang truyền đạt ý Đan xong, Kha đang ngà ngà, hứa "đâu dám không vâng mệnh đại ca". Kha vừa hứa xong, Quang dặn Kha phải đến gặp Thái tử Đan ngay, rồi rút gươm đâm cổ tự sát, nhằm khích máu yêng hùng của Kha, đồng thời cũng buộc Kha không còn đường đánh tháo.

Sau khi gặp Đan, Kha chấm dứt chuỗi dài cơm nhờ rượu chịu. Đan đưa Kha về, tôn là thượng khanh (khách quý bậc nhất), xây hẳn môt toà nhà to cho ở, ngày ngày đến thăm, đích thân cung phụng cỗ "Thái lao" (cỗ sang bậc nhất), xe ngựa và gái đẹp để Kha tùy ý hưởng thụ.

Một hôm Kha định nhặt viên ngói ném con rùa dưới ao, Đan bèn đưa thoi vàng cho Kha liệng, khỏi mất công cúi nhặt. Có bữa cùng cưỡi ngựa, Kha buột miệng khen gan ngựa ngon, Đan bèn cho thịt luôn con ngựa quý ngày đi nghìn dặm của mình để lấy mỗi lá gan đãi khách. Một lần cùng nhậu, Kha khen người thiếp hầu đàn của Đan có đôi bàn tay đẹp. Tiệc xong, Đan cho dâng lên Kha một mâm ngọc. Mở ra, trên mâm chính là đôi bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân...

Kíp đến ngày quân Tần đã tập trung ở biên giới phía Nam sông Dịch, Đan Thái tử hoảng sợ và dục Kha lên đường. Kha bèn ra điều kiện rằng: để tiếp cận Tần vương, Đan phải cấp cho Kha 2 món hàng đặc biệt để dụ "đối tác": Thứ nhất, là thủ cấp của Phàn Ô Kỳ (cựu tướng nhà Tần, kẻ tử thù của Tần vương, đang tị nạn ở Yên, được Đan cưu mang), thứ hai, là bản địa đồ Đốc cương, một khu đất trù phú của Yên mà Tần vẫn luôn thèm khát. Đan bảo cái đầu Phàn tướng quân thì hơi khó, chứ cái địa đồ Đốc cương thì có gì mà tiếc.

Kha bèn đích thân đến gặp Phàn Ô Kỳ, xin... cái đầu. Ô Kỳ rút gươm tự cứa cổ, cổ đứt chưa hết, Kha lấy gươm chặt cho đứt hẳn rồi xách về. Gặp Đan, Kha lại câu giờ, bảo chưa có dao (chủy thủ) để lụi Tần vương. Đan nói, dao chuẩn bị lâu rồi, mua hết cả trăm cân vàng, đã tẩm thuốc độc, thử trên người, rớm tý máu là chết liền.

Kha vẫn muốn câu giờ, xin Đan cho chờ một "chiến hữu" tên là Cáp Nhiếp về rồi mới cùng đi. Thực chất, Cáp Nhiếp mới là "đệ nhất thiên hạ" về kiếm pháp và cũng không hề là "chiến hữu" của Kha. Sử ký cho biết: đã có lần Kha qua đất Du Thứ, huyên thiên nói chuyện kiếm pháp với Nhiếp, Nhiếp coi khinh chẳng thèm nói gì, chỉ trừng mắt nhìn Kha. Kha vội trốn biệt khỏi đất Du Thứ. 

Đan nói việc nước sôi lửa bỏng không thể chờ được. Cáp Nhiếp lênh đênh như bèo trôi mặt bể, biết tìm ở đâu. Hiện dưới trướng Đan có kẻ tên là Tần Vũ Dương, từng giết người từ lúc mới 13 tuổi, Kha mang đi theo cùng vậy.

Âm mưu "bán cái" điệp vụ cho Cáp Nhiếp không thành, Kha đành thở dài cam chịu. Đan soạn ngay quốc thư hiến đất Đốc Cương và giao nộp thủ cấp Phàn tướng quân, lại bỏ thêm hàng nghìn lượng vàng sắm sửa hành trang cho Kha mang đi. Tần Vũ Dương được giao làm phó sứ, xách đồ cho Kha.

Đến ngày đi, Đan mở tiệc hoành tráng tiễn hai "đặc vụ" bên bờ sông Dịch. Bên tiễn mặc sẵn áo tang, Cao Tiệm Ly được mời tới chơi đàn để lên dây cót cho Kinh Kha uống và hát. Kha hát: 

Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh ghê, Tráng sĩ một đi không trở về...

Đan quỳ xuống dâng thêm một ly nữa, Kha đón lấy hắt một phát vào miệng không hề nhăn mặt, đoạn lại phọt ra thêm mấy câu hát nữa rồi leo lên xe, người ra đi đầu không ngoảnh lại...

Đặc vụ Kinh Kha sang đến đất Tần, hối lộ ngàn lượng vàng để được vào cung gặp mặt Tần vương, dâng thủ cấp Phàn Ô Kỳ và địa đồ. Vào cung, Kha được lên chính điện, còn Dương phải ôm tráp quỳ ở dưới. Kha dâng cuộn địa đồ cho Tần vương, trong đó có dấu con dao, Tần vương giở ra chưa kịp đọc chữ xem tranh thì đã thấy mũi dao lòi ra. Kha hoảng quá một tay túm áo vua Tân, một tay giằng dao nhưng đâm không kịp, chỉ dứt được mỗi cái tay áo của Tần vương. Bên đuổi, bên chạy lòng vòng, Tần vương cũng luống cuống mãi chưa rút được gươm. Sau nhờ viên quan ngự y ném cái túi thuốc cản Kha và một tên hầu nhỏ mách nước, Tần vương mới xoay bao gươm ra sau lưng và rút được gươm ra khỏi vỏ. Tần vương chém một phát, Kha đứt ngay đùi trái không chạy được nữa, đành ném hú họa con dao, nhưng chỉ trúng cái cột đồng, tóe lửa. Đặc vụ số 2 là Tần Vũ Dương chưa kịp động thủ cũng lập tức bị đập chết.

Hỡi ôi! Thế là:

Kinh Kha chưa lên đường hề, thì đã toi mạng Điền Quang tiên sinh và Phàn tướng quân, thêm nàng hầu rượu xinh đẹp bị chặt hai tay, chắc cũng chết nốt. Thằng bị thử dao chỉ rướm tý máu, thì đã chết rồi. Con thiên lý mã chết oan vì hiến nội tạng cho ngài nhậu. Vàng ngọc mất oan vì bị ngài đem ném rùa, hối lộ và tiêu sài, không có sao kê nên không thể liệt kê cho hết.

Khi Kinh Kha thi hành "điệp vụ" hề, thì chính ngài cũng toi nốt, lại chết thêm tay cộng sự Tần Vũ Dương, và mất luôn cái dao tẩm độc Đan mua cả trăm cân vàng.

Kinh Kha thi hành "điệp vụ" xong hề, thì đến lượt Đan thái tử, kẻ chủ mưu và tài trợ vụ khủng bố này cũng bị chính cha mình phục rượu, thắt cổ, chặt lấy cái đầu mang đi tạ tội với vua Tần.

Phía bên kia, mục tiêu ám sát là Tần vương hề, thì chỉ rách mỗi cái tay áo và bị một phen hồn vía lên mây. Bù lại, nước Yên mất hẳn về tay nước Tần.

Thế mới lòi ra cái trình kiếm thuật của tráng sĩ võ mồm Kinh Kha, mà lâu nay ngài vẫn mang nó đi "du thuyết" khắp nơi.

Sử ký Tư Mã Thiên (phần Thích khách liệt truyện) chép: "Lỗ Câu Tiễn sau khi nghe tin Kinh Kha đâm vua Tần, nói riêng một mình: Than ôi, hắn không thạo về phép đánh gươm. Ta thật không biết người quá nỗi..."

Còn Đông Chu liệt quốc thì đánh giá hiệu quả của điệp vụ như sau:

"Tiếc thay Kinh Kha chịu thái tử Đan nước Yên cung dưỡng bao nhiêu ngày, đi sang Tần làm một việc chẳng xong, không những tự hại mình, lại làm uổng ba người là Điền Quang, Phàn Ô Kỳ và Tần Võ Dương, đoạn tống sinh mệnh cha con vua Yên, đó cũng vì kiếm thuật không tinh mà nên nỗi vậy".

Rốt cục, anh hùng cái con khỉ, Kinh Kha chỉ là một thằng ăn hại.

Ăn hại và nói phét.


---------

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Tìm người Vô ngã

 


1. Vô ngã trong đạo Phật

Phiên âm tiếng Phạn trong kinh điển là "anatta", dịch qua chữ Hán thành "vô ngã".

Ngã, chữ Hán có nghĩa là "ta, tôi, tao". Vô ngã nghĩa đen là “không có ta”, theo phái Đại thừa thì vô ngã có nghĩa là “vô tự tính” còn theo phái Nguyên thủy thì vô ngã có nghĩa là “không phải là ta, không phải là của ta”.

Hiểu nôm na, "Ngã" hay "cái Ta" bản chất chỉ là sự kết hợp của các yếu tố gọi là Ngũ uẩn, bao gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Bản thân các yếu tố ấy cũng tồn tại phụ thuộc vào nhau. Không có cái “Ta” độc lập, chủ thể nào bên trên sự kết hợp ấy. Thái độ vọng chấp coi trọng cái “Ta” và “Của ta”, đưa tới cách sống tiêu cực, ích kỷ, thù hận, kiêu căng, xấu xa, bất thiện.

Tu theo Phật, đạt được vô ngã thì cũng là đã vào được Niết bàn. Ở nước ta có khoảng 53.000 tăng ni, Thái Lan có khoảng 300.000 nhà sư nhưng thử hỏi đã mấy người đạt được vô ngã?

Hôm 15-7 vừa qua, Vua Thái Lan Vajiralongkorn đã ra sắc lệnh tước chức vị đã phong cho 81 nhà sư, sau khi cảnh sát Hoàng gia bắt cô nàng Wilawan Emsawat. Em này sau khi quan hệ tình dục thì giở bài tống tiền đối với hàng loạt sư trong đó có ít nhất 9 cụ trụ trì và chức sắc tôn giáo cấp cao, gây chấn động dư luận. Cảnh sát cho biết, các sư cụ đã nộp vào tài khoản của nàng 385 triệu Baht (tương đương 11,9 triệu Usd).

Kể vậy để thấy tìm trong giới tu hành, người đạt được vô ngã là hiếm cỡ nào.

2. Chuyện dân gian

Chuyện kể rằng: Một anh nọ uống rượu với bạn bè, say bí tỉ không còn biết trời trăng gì nữa. Chúng bạn muốn trêu anh bèn đem anh ra cạo trọc đầu, rồi khiêng bỏ vào chùa. Tỉnh dậy, anh ta thấy mình ở trong chùa, sờ lên đầu thấy trọc lốc, không thể nhớ ra mình là ai. Trên đường từ chùa về nhà anh ta cứ vừa sờ lên đầu vừa lẩm bẩm tự hỏi:

"Ta ơi, ta có phải là sư không? Sư ơi, sư có phải là ta không?".

Về đến nhà, con chó thấy anh đi xiêu vẹo, đầu lại trọc, không nhận ra chủ sủa ầm ĩ. Anh kết luận vậy là ta không phải là ta, mà ta là sư rồi.

Câu chuyện ngắn, tưởng chỉ là để vui đùa nhưng lại đầy tính triết học. Ta là ai? Ta là sư hay sư là ta? Câu hỏi này có tính tư tưởng cao hơn hẳn câu hỏi của Hamlet "tồn tại hay không tồn tại". Đây cũng chính là câu hỏi của Trang tử, một triết gia cổ đại người Trung Hoa trong câu chuyện Trang Chu mộng hồ điệp. Một hôm Chu (tên thật của Trang tử) mơ thấy mình là bướm, bay lượn tự do. Tỉnh dậy, Chu tự hỏi: Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay con bướm đang chiêm bao là Chu?

Trong trạng thái say cũng có thể đạt được "vô ngã", nhưng đến lúc tỉnh thì lại "hữu ngã". Trừ một vài trường hợp hiếm có như những nhân vật huyền thoại Tế Điên hay Lưu Linh bên Tàu.

3. Đời thường:

Càng ngày càng thấy nhiều ông chẳng phải là sư, chưa nhậu, hoặc nhậu chưa say mà đã túm áo người khác, hỏi: "Mày có biết bố mày là ai không"?

"Bố mày" ở đây phải hiểu là "Tao" chứ không phải bố thằng được hỏi.

Đấy, ra đường giờ này đầy các bậc "vô ngã" đích thực!


-----------

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2025

Chương trình POW/MIA: Gian nan - những chuyện như đùa,

 


Năm nay là năm kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (11/7/1995 - 11/7/2025). Trong 30 năm qua, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển vượt bậc, từ cựu thù trở thành bạn bè và đối tác, và nay là đối tác Chiến lược Toàn diện. 

Chương trình POW/MIA chính là then chốt mở ra mối quan hệ ấy.

POW là cách viết gọn của Prisioners Of War, MIA là viết gọn của Missing In Action. POW/MIA có nghĩa là Vấn đề tù binh, quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh.

Thực ra vấn đề POW/MIA ở Việt Nam bắt đầu từ thời Richard Nixon còn làm tổng thống. Khi phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ lên đến cao, Nixon đã cố gắng thuyết phục công chúng Mỹ tin rằng việc duy trì chiến tranh là cần thiết để giải cứu tù binh. Kết cục, chiến dịch Linebacker năm 1972 (dùng B52 ném bom Hà Nội) của Nixon chẳng những đã không "giải cứu" được thêm tù binh nào mà còn báo hại tiếp tục nối dài danh sách POW/MIA của nước Mỹ. Nixon buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Paris để thực hiện lời hứa đưa tù binh Mỹ về nước.

Sau Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề POW/MIA trở nên có vai trò rất quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ. Trên thực tế, chính quyền Mỹ đã không ít lần dùng vấn đề POW/MIA để gây sức ép với Việt Nam trong quan hệ song phương.

Thời Ford (1974-1977) và Carter (1977-1981) đều cho rằng Việt Nam không “đưa ra được một thống kê đầy đủ và chính xác về người Mỹ mất tích”, và đó là một "lý do hoàn hảo" để tiến hành cấm vận. Đến thời Ronald Reagan (1981-1989), thì vấn đề POW/MIA mới trở thành “ưu tiên cao nhất của quốc gia”. Điều đó có nghĩa rằng POW/MIA đối với nước Mỹ là vấn đề hết sức nghiêm túc và cấp bách.

Thế nhưng, những chuyện như đùa vẫn cứ xảy ra.

Đầu tiên là sự nhảy múa của những con số: Năm 1973, người Mỹ thống kê có 1303 MIA (lính Mỹ mất tích) đến năm 1978 đã giảm xuống còn 224. Hai năm sau (1980), con số này lại tăng vọt lên tới 2500. Đến năm 1987, con số này lại được công bố là 269.

Khi mà các con số của chính quyền Hoa kỳ không thể thuyết phục các cựu chiến binh Mỹ và thân nhân họ, thì đó lại là thời cơ của Hollywood.

Trong thập niên 70 và 80, Hollywood đã khai thác đề tài POR/MIA bằng loạt phim gồm Good Guys Wear Black (1978); Uncommon Valor (1983); Missing in Action (1984) và Rambo: First Blood phần II (1985). Đây là loạt phim hoàn toàn hư cấu về các người hùng kiểu Rambo đi giải cứu tù binh chiến tranh bị chính quyền Mỹ bỏ rơi trong những nhà tù bằng tre trong các khu rừng nhiệt đới. 

Một số cựu binh Mỹ nắm bắt ngay cơ hội, họ biết cách biến cuộc tìm kiếm những tù binh ảo của Rambo thành một hoạt động kinh doanh có thật.

Cựu Trung tá Không quân Jack E. Bailey lập ra một dự án kêu gọi tài trợ mang tên Chiến dịch Giải cứu và mua con tàu SS Akuna cho mục tiêu của dự án. Tuy vậy, nhiều năm trôi qua Bailey chẳng đưa ra được thông tin về bất kỳ một tù binh nào và con tàu phục vụ dự án của y cũng chưa bao giờ rời bến Songkhla ở Thái Lan. Sau, người ta phát hiện ra Bailey đã khoác lác khi đã tự tặng cho mình những huân huy chương và tuyên bố rằng mình là phi công lái máy bay chiến đấu trong khi y chỉ là sĩ quan mặt đất. Các điều tra tài chính sau đó đã chỉ ra rằng 89% số tiền gây quỹ Chiến dịch Giải cứu đã được Bailey dùng vào việc... tiếp tục gây quỹ .

Một anh khác, Bo Gritz, cựu thành viên Lực lượng đặc biệt được cho là đã thực hiện một loạt các nhiệm vụ ở Đông Nam Á, dưới danh nghĩa tìm kiếm các tù binh chiến tranh Mỹ vẫn đang bị giam giữ ở vùng biên giới Lào và Việt Nam. Hóa ra nhiệm vụ đặc biệt mà anh ta thực hiện ở đó chỉ là bán áo phông giải cứu tù binh chiến tranh làm kỷ niệm. Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ cuối cùng đã tuyên bố: "Trong suốt những năm tham gia của mình, ông Gritz không đóng góp gì có giá trị cho vấn đề tù binh/người mất tích trong chiến tranh. Trên thực tế, các hoạt động của ông đã đã có tác dụng.. ngược lại." 

Phía châu Á cũng cơ hội không kém, người ta "sản xuất" và bán ra các “bằng chứng” về tù binh, chẳng hạn như các thẻ bài hay vòng tay kim loại, hài cốt và những bức ảnh. Rồi còn có cả tù binh giả nữa. 

Có khi “hài cốt lính Mỹ” được “phát hiện” ở đâu đó,  được mua bán qua tay nhiều lần trước khi đến được với thân nhân. Nhưng khi thuê chuyên gia kiểm tra, họ phát hiện ra đó là hài cốt của người châu Á hoặc thậm chí chỉ là xương động vật.

Một bức ảnh được đặt tên là “Ba người bạn” công bố vào tháng 7-1991 trên bìa tạp chí Newsweek cho thấy rõ ràng có 3 "tù binh Mỹ còn bị giam giữ". Con gái của một đại tá không quân bị mất tích đã khẳng định “đó là cha tôi” trong chương trình “Good Morning America”. Sau mới vỡ lẽ đó là hình ảnh đã được những kẻ lừa đảo ở Campuchia chỉnh sửa từ bức ảnh chụp ba lão nông dân Nga vào năm 1921.

Một bộ phim tài liệu của Canada mang tên "Unclaimed" công bố một người đàn ông tự nhận là John Hartley Robertson, cựu Trung sĩ Mũ nồi xanh thuộc Lực lượng đặc biệt. Trong hồ sơ của chính phủ Mỹ, Robertson được xác định là đã chết khi bị bắn ngày 20-5-1968. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Hot Docs Canada ngày 30-4-2013.

Nhưng chỉ ngay ngày hôm sau, ngày 1-5-2013, trên tờ The Independent đã xuất hiện nội dung của một báo cáo lập năm 2009 của Văn phòng POR/MIA-Bộ Quốc phòng rằng người đàn ông tự nhận là Robertson thực chất là Đặng Tấn Ngọc, "một công dân Việt Nam gốc Pháp 76 tuổi đã có "tiền sự" nhiều lần giả làm cựu chiến binh quân đội Hoa Kỳ", có lẽ từ những năm 1982 để kiếm tiền. Robertson-Ngọc "quên sạch" tiếng Anh, lấy vợ người thiểu số và đã từng được đưa đến đại sứ quán Hoa Kỳ tại Campuchia để lấy dấu vân tay. Dĩ nhiên dấu vân tay của Ngọc không khớp với dấu vân tay của Robertson trong hồ sơ lưu.

Nhưng tai ác nhất phải là bài báo đăng trên trang nhất tờ Times ra ngày 12-4-1993, do nữ phóng viên Celestine Bohlen "đưa tin từ Moscow" tung ra một tài liệu được cho là của tình báo Xô Viết.




Thực ra, đây là tài liệu của Stephen Morris, một học giả người Úc luôn thể hiện sự thù địch với Việt Nam cung cấp cho Bohlen.

Tài liệu này viết rằng chính quyền Việt Nam vẫn còn đang giữ 1205 tù binh Mỹ, nhiều gấp đôi số được thả (591) khi Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973. Công bố này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận nảy lửa kèm theo những chỉ trích về sự giả dối của Việt Nam và cáo buộc chính quyền Hà Nội hoặc đã chuyển các tù binh sang giam giữ ở Nga hoặc đã sát hại các tù binh để che giấu.

Trong bài viết của Bohlen, tài liệu do Stephen Morris cung cấp được mô tả là "một báo cáo tuyệt mật (do "Trung tướng Trần Văn Quang - Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN") gửi đến Bộ Chính trị vào tháng 9-1972 cho thấy Bắc Việt Nam đã giam giữ 1.205 tù binh Mỹ".

Nhưng năm 1972 ông Trần Văn Quang chưa phải là Trung tướng và đang phụ trách Quân Khu Trị-Thiên, không phải là Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN.

Trong cái gọi là "báo cáo tháng 9-72 gửi tới Bộ Chính trị", "tướng Quang" nói về "các cuộc họp bí mật với một tướng ngụy Việt Nam Cộng hòa tên là Ngô Đình Dzu". Nhưng VNCH không có tướng nào mang tên đó, gần giống thì có tướng Ngô Dzu, năm 1972 đã từ chức tư lệnh quân đoàn 2, bỏ Kontum về Sài gòn chữa bệnh. Hay là Ngô Đình Nhu chăng? Nhưng ông Nhu đã bị nhóm đảo chính của VNCH giết chết vào năm 1963.

Một sự kiện khác mà "tướng Quang" nhắc đến vài lần trong “báo cáo tháng 9 năm 1972” là "Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam", nhưng đến tháng 12 năm 1974 Hội nghị đó mới diễn ra.

Các mô tả về "hệ thống nhà tù miền Bắc Việt Nam dành cho tù binh Mỹ" trong "báo cáo" của "tướng Quang" cũng khác hẳn với những gì các tù binh đã miêu tả sau khi được thả vào năm 1973. Các số liệu cũng không hợp lý, "báo cáo" cho biết tính đến tháng 9-1972, đã có 624 phi công bị bắt ở miền Bắc Việt Nam, trong khi đó thống kê của Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết con số tối đa chỉ có thể là 467.

Một câu hỏi dễ dàng đặt ra là liệu các sĩ quan tình báo quân sự Liên Xô ở Hà Nội có "giỏi" tới mức không biết tướng Phùng Thế Tài mới là Phó Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam vào năm 1972, hay có thể tưởng tượng ra một Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng hai năm sau mới diễn ra, hoặc có thể công nhận những cuộc họp xuyên không giữa "tướng Quang" với "tướng Ngô Đình Dzu" ở bên kia chiến tuyến trong khi chiến dịch Quảng Trị 1972 vẫn cứ diễn ra suốt năm chứ không chỉ trong một "mùa hè đỏ lửa".

Dù đã rõ ràng "báo cáo của tướng Quang" là một tài liệu ngụy tạo nhưng "Sự kiện đó như quả bom nổ tung, làm tan nát hết các dự định giữa hai bên", đó là nhận xét của ông Lê Văn Bàng, sau này trở thành đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Mỹ.

Vì vậy, cả hai phía Việt Nam và Mỹ đều phải khẩn trương phối hợp với Moscow tiến hành điều tra về nguồn gốc tài liệu. Kết quả, phía Nga khẳng định báo cáo kia là giả mạo, không hề có trong kho lưu trữ và thực chất nó là sản phẩm ngụy tạo của một trong những nhóm cực hữu chống phá việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ .

Nhưng tiến trình bình thường hóa giữa hai nước vẫn vì vụ việc này mà bị trì hoãn thêm một thời gian. 

Hơn hai năm sau, ngày 11-7-1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Công việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA) vẫn được cả hai nước tiến hành như là biểu tượng của sự hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh trong lòng hai dân tộc và hướng đến tương lai.


----------------


Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

Đọc chơi: ĐỊA DANH VÔ TÍCH

 


Khi Vô Tích, khi Lâm Truy.

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương

...

Ba quân chỉ ngọn cờ đào,

Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy...

Đó là hai câu thơ trong Truyện Kiều, nói tới địa danh Vô Tích.

Thời Xuân Thu chiến quốc, thì Lâm Truy là kinh đô nước Tề, còn Vô Tích thuộc nước Sở.

Trong chữ Hán, chữ Tích có nhiều cách viết, và cũng mang nhiều (vài chục) nghĩa, nhiều nghĩa thường gặp trong tiếng Việt, như: tích - xưa, tích - dấu vết, tích - tết (bện), tích - tiếc, tích - sáng, tích - tách, tích - chứa.. v..v...

Chữ Tích () trong địa danh Vô Tích, gồm chữ Dịch, đứng cạnh bộ Kim, có nghĩa là Thiếc, kim loại, (ký hiệu hóa học: Zn).

Đọc Đông Chu liệt quốc mới biết, nghĩa của Vô Tích là "không có thiếc".

Tên gọi này do Vương Tiễn, một danh tướng của nước Tần, đặt ra.

Năm 225 TCN, Vương Tiễn theo lệnh của Tần vương (Tần Doanh Chính, sau này gọi là Tần Thủy Hoàng đế), chinh phạt nước Sở. Quân Tần tiến vào Thọ Xuân, bắt sống vua nước Sở. Tướng Sở là Hạng Yên lập tôn thất nước Sở tên là Xương Bình quân lên ngôi, bỏ chạy về Lam Lăng, phía nam sông Trường Giang. Vương Tiễn lại kéo quân từ Anh Vũ Châu (Bãi Anh Vũ) đuổi theo chiếm thành Lam Lăng, diệt nốt Hạng Yên và Xương Bình Quân, sau đó tiếp tục đưa binh mã xuống càn quét miền Nam.

Vào khoảng năm 223 TCN, khi đóng quân ở núi Tích Sơn, quân lính của Vương Tiễn đào đất làm bếp thổi cơm, đào được một cái bia đá. Đem lên, thấy ở trong có khắc 12 chữ rằng:

“Hữu tích: binh, thiên hạ tranh;

Vô tích: ninh, thiên hạ thanh” .

Nghĩa là khi có thiếc thì đánh nhau, thiên hạ loạn; khi không có thiếc thì yên ổn, thiên hạ yên.

Vương Tiễn cho gọi thổ nhân (dân dịa phương) đến hỏi. Người này nói, từ khi vua Bình Vương nhà Chu dời sang đất Lạc (722 TCN), do núi ấy sản ra nhiều chì thiếc, nên gọi là Tích Sơn, 40 năm nay lấy dùng không hết, gần đây ít dần. Bia ấy cũng không biết người nào làm ra.

Vương Tiễn than rằng:

"Bia này lộ ra, thiên hạ từ đây được yên ổn, có lẽ người xưa đã xét thấy cái số (đã) định, nên chôn bia để bảo người sau đó chăng.

Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô Tích".

Hai năm sau, Tần Doanh Chính diệt nốt các nước chư hầu, bình định thiên hạ, chấm dứt hơn nửa thế kỷ chia cắt Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.



----------

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Đọc chơi: "Thay đổi địa danh" (trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hồ)

 

Phủ Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện trong phủ Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ, đời Lý đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh Xương, huyện Thanh Oai khi trước là Thanh Oai (1), huyện Thanh Trì trước kia là Thanh Đàm (2); chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương (3) nên mới phải bớt nét đổi là thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn (4) nên đổi ra chữ trì. Còn như trung lộ sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh Trì; Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm, huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt tên cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ Giang. Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy Lộ; Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại như kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu (5) tiếp giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ sông bị nước xói, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc suốt dọc bến phường Hà Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá làm mỏ hàn chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông, về phía nam, dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc. Bởi thế, những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các (6), nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố phường đô hội cả. Quê ta khi xưa là Hồng Lộ (nay là phủ Bình Giang), sau đổi là Hồng Châu, lại phân ra làm hai phủ Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang). Huyện ta làng Bùi Xá có ông Giám sinh tên là Nguyễn Luật; khi nhỏ ra chơi đùa ở làng ấy, ta thấy có một cái lò đất nung kiểu Trung Hoa, dưới đáy lò có thấy ghi mấy chữ: “Nhân Hồng phủ, Đường An huyện, Bùi Xá xã, Nguyễn mỗ công đức”, không biết cái lò ấy là tự đời nào. Huyện ta với huyện Đường Hào khi xưa hợp lại làm huyện Đường An. Ta thường hỏi cụ Phạm Quý Thích (7) về thời đại thay đổi, cụ cũng không được tường lắm. Còn như làng Hoa Đường (8) nguyên trước là Bồng thôn thuộc về xã Ngọc Cục, sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng. Xem trong “Đăng khoa lục” ghi chép quán chỉ (9) các đấng tiên hiền thì khá biết rõ.

Làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nguyên trước là xã Ngọc Ổi, sau đổi là xã Nhị Khê, theo biệt hiệu của một vị hương hiền là cụ Nguyễn Phi Khanh. Cụ Phong sinh ra ông Nguyễn Trực (10) người huyện Thanh Oai, là bậc ẩn dật không ra làm quan, biệt hiệu cụ là Bối Khê, nên làng cụ cũng theo biệt hiệu cụ mà gọi là xã Bối Khê. Khoảng năm Trung hưng, làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm có đào được cái chuông cổ ở chùa Diên Khánh. Mặt chuông có bài minh: “Đống Ngạch phường, Diên Hựu (11) tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân (12) thi kim nhất lạng” (13). Chữ rất cổ; hỏi thì các bô lão nói rằng phường Đống Ngạch xưa là đất làng Thụy Hương (Chèm) sau mới tách ra làng Đông Ngạc. Còn như chùa Diên Hựu mà đổi làm chùa Diên Khánh là để tránh phạm húy. Cuối đời Lê, cụ Phan Trọng Phiên có soạn bài khoán văn về việc trùng tu: “Chung minh Diên Hựu chi niên, tùng mậu trường thu chi âm” (14) cũng là trở về cái bài minh chùa Diên Hựu là Đông Ngạc vậy. Huyện Gia Phúc có bốn xã: Đỗ Tùng, Đoàn Tùng, Đào Tùng, Phạm Tùng. Cụ Đỗ Uông có làm bài ký cầu Phú Cốc (15) gọi là Tứ Tùng, tức là bốn xã trên. Sau để tránh tên húy Triết Vương (16), nên đổi là Tứ Kha.

Trấn An Bang vì tránh tên húy vua Anh Tông (17) nên đổi là An Quảng. Huyện Tân An, Duy Tân, Tân Phúc vì tránh tên húy vua Kính Tông (18) nên đổi chữ Tân ra chữ Tiên. Đạo Tuyên Quang ở vào đời vua Tương Dực đế (19) gọi là Minh Quang, nay mới gọi là Tuyên Quang, hoặc bảo là vì tránh niên hiệu Minh Đức (20) nhà Mạc mới gọi là Tuyên Quang. Song từ đời Lê Thái Tổ, trong sách Thực Lục đã gọi là Tuyên Quang rồi, như vậy không phải mới đổi từ đời Mạc. Gia Hưng, Quy Hóa, hai lộ hợp lại làm một, gọi là Hưng Hóa thừa tuyên, chép rõ ở trong sách Phong tục tổng lục. Thanh Hóa ở đầu đời Lê gọi là Thanh Hoa, đến đời trung hưng cũng gọi là Thanh Hoa. Vọng Giang về đời Trần là một trấn, khi thuộc đời Minh thì là một phủ. Tam Giang đổi là Tam Đáp, đều không biết đổi tự năm nào. Cụ Lê Quý Đôn (21) ở huyện Thiên Hà là bậc học thông minh rộng rãi, làm lãnh tụ trong nho lâm, khi sang sứ Trung Hoa, có vào yết kiến quan Đề học tỉnh Quảng Tây là Chu Bội Liên. Ông ta hỏi có chuyện Chiểu Lăng ở bên nước Nam nay thuộc về tỉnh, đạo nào. Cụ Lê Quý Đôn không thể đáp lại được. Khi trở về, hỏi ra thì chính là huyện Diên Hà. Năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt (22) có định sửa lại bản đồ trong thiên hạ, chia phủ Cao Bình (tức là Cao Bằng) gồm bốn châu thuộc đạo Thái Nguyên. Lúc đời Lê mới trung hưng, người Minh quy định cho họ Mạc ở đất ấy. Họ Mạc giữ đất Cao Bình bốn mươi bẩy năm. Nạn nội chiến tiếp diễn liên miên. Câu hát “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; nàng về nuôi cái cùng con, cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng.” là của vợ các chú lính phải đi chinh chiến lúc bấy giờ làm ra (23). Khoảng năm Khang Hy (24) đời nhà Thanh, quan trấn thủ Vân Nam là Ngô Tam Quế làm phản, họ Mạc cứu viện cho Ngô Tam Quế nên triều Lê mới tư sang Trung Hoa để họ cùng đưa binh sang đánh diệt họ Mạc, rồi đặt Cao Bình là một trấn, sai ông Võ Công Vinh lên làm Đốc trấn. Về sau, cứ theo thế, sai quan văn lên làm Đốc trấn, cũng giống như trấn Lạng Sơn, vì Cao Bình, Lạng Sơn bờ cõi tiếp liền với Vân Nam, Quảng Tây, công văn, giấy tờ đi lại, phi quan văn thì không làm nổi chức Đốc trấn ấy. Lại như Phú Lương, sau đổi ra Phú Bình, Đà Dương sau đổi ra Đoan Hùng, Ma Nghĩa sau đổi ra Minh Nghĩa, Cổ Đằng sau đổi ra Hoằng Hóa, Lương Giang đổi làm Đoan Nguyên (25), Thanh Đàm đổi làm Thanh Cương, Thanh Miệu đổi làm Thanh Miện, Tế Giang đổi làm Văn Giang, Trường Tân đổi làm Gia Phúc, Võ Ninh đổi làm Võ Giang, Thanh Liêm đổi làm Thanh Liệm. Cửa bể Thần Đầu đổi thành Thần Phù, nay đã lấp thành đồng bằng. Cửa bể Đại Ác nay đổi thành Đại An. Cổ Hiền khi xưa là một huyện, nay gồm về huyện bên cạnh. Hải Đông khi xưa là một phủ, nay thuộc cả về Trấn Ti. Đại loại như thế rất nhiều, không thể kể hết. Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được.

_______

 

Chú thích:

(1), (2) Trước là chữ Thanh có chấm thủy, nghĩa là trong. Sau, kỵ húy đổi thành Thanh -màu xanh,  không có chấm thủy.

(3) Tức Trịnh Tráng (1623 – 1657).

(4) Tức Lê Duy Đàm (1573 – 1599).

(5) Giang Khẩu, Hà Khẩu: là khu vực phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm (cũ).

(6) Thái Cực nay là sau phố Hàng Bạc và ngõ Sầm Công. Đồng Hà nay là Hàng Gai, Đông Các nay là Hàng Bạc.

(7) Phạm Quý Thích (1599 – ?) cũng người huyện Đường An, cùng quê với Phạm Đình Hổ.

 (8) Làng Hoa Đường là làng Phạm Quý Thích.

(9) Quán chỉ là quê quán, thân thế, nói chung.

(10) Nguyễn Trực (1417 – 1473) đậu trạng nguyên năm 1442 đời Lê Thái tông. Cụ Phong nói ở đây tức là Nguyễn Thi Trung.

(11) Bản dịch viết là Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự.

(12) Bản dịch viết là Tôn Trần.

(13) Quả chuông của chùa Diên Hỗ, phường Đống Ngạch. Năm Diên Hựu thứ hai đúc xong. Người tín đố làm quan tên là Tống Trân cúng một lạng vàng.

(14) Quả chuông khắc năm Diên Hựu, cây tùng tốt rợp bóng lâu dài.

(15) Đỗ Uông, người huyện Gia Phúc (Vĩnh Phú) đỗ bảng nhãn, làm quan nhà Mạc, nhà Mạc mất, ông đem các văn thần đến cửa quân nhà Lê xin quy thuận.

(16) Triết vương tức Trịnh Tùng (1570 – 1623) người đánh phá nhà Mạc, lấy lại Đông Đô lập ra nghiệp Chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. Miếu hiệu của ông là Thành Tổ Triết vương.

(17) Lê Anh Tông (1557 – 1573) tên húy là Duy Bang.

(18) Lê Kính Tông (1600 – 1619) tên húy là Duy Tân.

(19) Lê Tương Dực (1509 – 1516).

(20) Minh Đức là niên hiệu Mạc Đăng Dung (1527 – 1529).

(21) Lê Quý Đôn (1725 – 1783).

(22) Tức là năm 1491.

(23) Bản gốc viết là do các chinh phu, tức những binh lính đi chinh chiến xa làm ra.

(24) Khang Hy (1662 – 1720).

(25) Bản dịch viết là Thụy Nguyên.

---------

Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiều, còn có biệt hiệu là Hy Kiều Phủ, người đời thường gọi là Cụ Tế Đan Loan. Ông quê ở xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Nhà ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, thuộc thành Thăng Long.

Tác phẩm: Vũ trung tùy bút, Nhật dụng thường đàm, Đông Dã học ngôn thi tập, Bạn tiếp tồn phụng, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án)...