Lâu quá Thiên Lý không vào lại blog hoang
vu này, đến nỗi quên cả mật khẩu, quên cả cách tạo bài viết...
Nay nghỉ hưu đã 5 năm, rảnh rỗi, lọ mọ
học chữ Hán để trốn già, vừa học vừa "dịch" lại ít bài thơ nổi tiếng mà nhiều bậc túc nho tiền bối
đã từng dịch.
Quả thật không dám đánh trống qua cửa
nhà sấm, vì tự học (chữ Hán) nên ngữ nghĩa có thể còn hiểu được đôi chút (mà nếu không
hiểu thì vẫn còn có từ điển để tra), chứ về ngữ pháp thì đích thị là mù tịt.
Cho nên, mục đích chính của việc
"dịch" thơ Hán này chỉ là hỗ trợ cho việc "học" chữ Hán mà thôi.
Nay thử dịch Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:
Nguyên văn Hán tự (Nguồn: thivien.net)
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Phiên âm:
Hoàng
Hạc lâu
Tích
nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử
địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng
hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch
vân thiên tải không du du.
Tình
xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương
thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật
mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba
giang thượng sử nhân sầu.
Bản
dịch 1
Hoàng
Hạc Lâu
Người
xưa cưỡi hạc lạc nơi đâu,
Để lại
ven sông chiếc Hạc lầu.
Một
đi, hạc vàng không về nữa,
Ngàn
đời, mây trắng mãi trôi mau.
Sông
tạnh, Hán Dương cây khoe sắc,
Cỏ
non, Anh Vũ bãi phô mầu.
Chiều
xuống, quê nhà đâu rồi nhỉ?
Trên
sông, khói tỏa, sóng lan sầu.