Mấy đời bánh đúc có xương?
------
Tem in hình Đông Dương Tổng thống toàn quyền Đại thần Pau Doumer do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ |
Entry trước kể chuyện trong 5 năm, từ 1897 đến 1902, quan
thực dân Paul Doumer (Pôn Đù me), với vai trò Toàn quyền cai trị xứ Đông Dương đã
để lại những “công tích” nhất định, đó là những cơ sở hạ tầng về
kinh tế, xã hội, văn hóa, mà phần lớn trong số đó, cho đến nay vẫn hữu
ích với người Việt.
Paul Doumer cũng là một trong số hiếm hoi người Pháp thực
dân có nhận xét tốt đẹp về người Việt. Ông đánh giá người Annam
thông minh, cần mẫn và can đảm, hơn hẳn các dân tộc lân bang như Lào,
Miên và Thái, kể cả Ấn Độ. Và ông cho rằng chỉ có người Nhật mới
có thể có những đức tính tương đương với người Annam.
Tuy vậy, thật ngu xuẩn nếu cho rằng Paul Doumer thực
hiện những điều đó hoàn toàn vì một tấm lòng nhân ái đối với
những “người cùng khổ” tại xứ Annam thuộc địa. Chí ít thì những
dòng hồi ức của chính ông cũng hé lộ “động cơ” thực sự thúc đẩy
lòng nhiệt thành của quan Toàn quyền trong việc xây dựng hệ thống
đường sắt xuyên Việt:
“Chúng ta được ưu đãi hơn nhờ vào
những thuận lợi mà vùng châu thổ sông Hồng đem lại cho chúng ta để đến được Vân
Nam. Chúng ta phải biết lợi dụng tình thế này để gắn kết việc xây dựng mạng
đường sắt ở Đông Dương thuộc địa với nỗ lực của chính quốc, tạo cơ sở cho hành
động xâm nhập của chúng ta vào Trung Quốc. Vì vậy, trước tiên Toàn quyền Đông
Dương phải tìm cách tạo ra các nguồn tài chính cần thiết cho việc xây dựng mạng
đường sắt bằng cách tăng thêm các khoản thu ở những xứ thành viên của Đông
Dương có ngân sách thu ít nhất. Như thế mới gây được niềm tin cho giới tư bản ở
Pháp. Chính họ mới là chỗ dựa của chúng ta, chúng ta phải kêu gọi họ tới đầu tư
ở Đông Dương dưới dạng này hay một dạng khác”.
(Hồi ký L’Indochine
Française (Souvenirs) Nhà xuất bản Vuibert & Nony, Paris 1903, Nguyễn
Văn Trường trích dịch)
Những “công tích lớn lao” đã được “ca tụng” trong entry
trước, và cả những “công tích” còn dang dở, như dự định về tuyến
đường sắt Sài Gòn – Phnompenh, được chính Paul Doumer ghi lại đầy đủ trong
cuốn hồi ký Xứ Đông Dương thuộc Pháp
(Hoài niệm) nói trên. (Các ông Nguyễn Văn Trường, cựu nhân viên Viễn
Đông Bác cổ đã dịch một số đoạn đăng báo, cụ Vương Hồng Sển dịch
một phần trong di cảo Dỡ mắm, riêng Công ty cổ phần sách Alpha và Nhà xuất
bản Thế Giới đã huy động vốn (bán trước khi in) đạt 104% để dịch và sẽ
in vào tháng 12-2015 – Vinh dự thay, ông Nguyễn Cảnh Bình Chủ tịch HĐQT
Alpha books bày tỏ lòng tri ân quan toàn quyền trước khi bán sách).
Nhưng cũng còn có những “công tích” khác đối với
người Annam khốn khổ mà Paul Doumer không hề muốn ghi lại trong hồi ký
và chắc chắn, chẳng người Việt lương thiện nào muốn “tri ân”.
Chẳng hạn,
Vào tháng 3-1897, theo các hiệp ước và thỏa thuận đã
ký từ những năm 1885-1886 được viên Toàn quyền Đông Dương thời 1894 là
Lanessan xác nhận, thì Bắc kỳ là phần đất vẫn thuộc về nhà vua
Annam và được cai quản bởi chức Phó vương, hay còn gọi là quan Kinh
lược sứ của người Việt, lúc bấy giờ là Hoàng Cao Khải. Doumer đã
nhẫn tâm tước nốt chút quyền lực cuối cùng và ít ỏi của triều
đình Huế trên đất Bắc, bằng cách bãi bỏ chức vụ này thông qua một
đạo dụ của nhà vua vào ngày 26-7-1897. Quyền hạn của Hoàng Cao Khải
được chuyển giao cho viên Thống sứ người Pháp Augustin Fourès. Chức vụ
Thống sứ Bắc kỳ này vốn đã được bãi bỏ vào năm 1895 nay lại được
phục hồi.
Thế là xứ Bắc kỳ nay đã do người Pháp trực tiếp cai trị.
Ít lâu sau, đến lượt chính quyền trung ương Annam tại Trung kỳ cũng bị Doumer "mần thịt":
Nắm lấy cơ hội kết thúc thời kỳ vị thành niên của
vua Thành Thái, đồng nghĩa là dịp kết thúc chế độ “phụ chính” (vốn
do Phụ chính đại thần, thượng thư Nguyễn Trọng Hiệp (Hợp) đảm nhiệm), từ tháng 9-1987, Toàn
quyền Doumer trực tiếp chi phối vương triều Annam thông qua một Hội đồng
mới, gọi là Viện Cơ mật, mà chức vụ chủ tịch Hội đồng sẽ là một
người Pháp (đầu tiên là Brière rồi đến Auvergne và Boulloche), những
người Annam còn lại sẽ do nhà vua bổ nhiệm theo đề xuất của Pháp.
Vua là tượng gỗ |
Tờ báo Pháp Illustration số ra ngày 10-1-1903 bình
luận: “Hội đồng được thu nhỏ thành
một sân khấu múa rối đáng yêu với những con rối xinh đẹp mạ vàng mà
tất cả các dây nhợ từ nay phải được buộc vào những ngón tay của
viên Thống sứ”.
Với Doumer, toàn cõi Annam phải tiến đến một nền cai
trị trực tiếp và từ nay chấm dứt việc đặt ra vấn đề trả lại quyền
hành thực sự cho người Annam.
Tác giả Philippe Devillers viết về những "công tích" này, trong cuốn Người Pháp và người Annam – Bạn hay
thù?: “Như vậy, những quyết định đầu tiên về chính trị của Paul
Doumer đối với Annam, là hoàn thành việc người Pháp nắm lấy chính
phủ vương triều bằng việc đặt một viên chức Pháp lên đầu chính phủ
này, nô lệ hóa hoàn toàn Nhà vua và các Thượng thư, thu nhỏ họ lại,
(như Ủy ban Bremier đã khuyến cáo năm 1857), trong vai trò của những
người thừa hành, thậm chí những bù nhìn, để tiêu diệt những vết
tích cuối cùng ảnh hưởng của vương triều Huế lên Tonkin”.
Đặc biệt không thể không nhắc đến một “công tích” rất “ấn
tượng” khác mà Paul Doumer để lại trong những năm cầm quyền, đó là đánh thuế, đánh thuế và... đánh thuế. Thật ra đây mới đích thực là “nghề của chàng” - vốn là Bộ trưởng Bộ
Tài chính trước khi trở thành Toàn quyền Đông Dương.
Một người Pháp cùng thời từng tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris (École Polytechnique) là Đại úy Fernand Bernard, nhân
vật dưới quyền được Doumer giao “tiền trạm” con đường từ Sài Gòn đến Lang Biang
vào tháng 9-1898, ghi lại “công tích” này của Doumer trong cuốn Đông Dương - Những sai lầm và nguy hiểm
(L’ Indo-Chine. Erreurs et dangers,
NXB Charpentier, 1902):
“Vào năm 1897, chỉ trong vài tuần
lễ, một cơn mưa đá thực sự đổ xuống. Tăng thuế thân và thuế địa ốc,
thuế của những người không đăng ký, thuế đăng ký sắc phong của các
quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy có đóng dấu, thuế muối, rượu,
thuyền trên sông, giấy phép đốn gỗ, thuế thuốc lào, thuế cau, thuế
củi, thậm chí cả thuế rơm thuế rạ để lợp những cái lều thảm hại
nhất...”
Doumer chủ trương khai thác cùng kiệt các tài nguyên của các
nước trong Đông Dương. Theo nhà báo Phan Quang, trong triều đại Doumer các
sắc thuế được đẩy mạnh hết mức để đạt mục tiêu cải tổ tài chính, đặc
biệt là thuế thuốc phiện, thuế muối và thuế rượu. Các sắc thuế bòn rút
từ người dân đóng vào ngân sách thuộc địa tăng từ 20 triệu đồng Đông Dương năm
1899 lên 33 triệu đồng năm 1902. Ở Trung Kỳ, thuế thân và thuế ruộng đất tăng
từ 83.000 đồng năm 1897 vọt lên 2.000.000 đồng vào năm 1899. Ở Bắc Kỳ, 2
sắc thuế ấy đến 1907 đạt gần 5 triệu đồng. Trong khi đó, mọi loại thuế má
người Pháp làm việc tại Đông Dương phải đóng góp vào ngân sách vỏn vẹn có 9.000
đồng/năm.
Trên thực tế, trong 5 năm cầm quyền của Paul Doumer,
gánh nặng thuế má đè nặng lên dân chúng Annam tăng gần gấp đôi. Và
để tận thu, Doumer còn thiết lập các chế độ quản lý và độc quyền
gây thêm những hậu quả về kinh tế: Nhiểu hộ dân sản xuất rượu buộc
phải phá sản và việc chăn nuôi heo cũng giảm theo do người dân vốn quen
“vỗ” béo heo bằng bã rượu. Tương tự, thuế muối và độc quyền sản xuất
muối làm thiệt hại đến việc đánh bắt cá và sản xuất nước mắm.
Trong khi đó, bộ máy quản lý của người Pháp ngày càng phình to, và
F. Bernard nhận xét ở Bắc kỳ: “Lương
của các quan (Annam) là từ 8-10 lần kém lương của các công chức Pháp,
và tổng cộng lại toàn bộ dân sự Annam của bộ máy hành chính, các
tỉnh hàng năm tốn ít tiền kém 5 lần so với vài trăm nhân sự người
Âu.”
Dân là thân trâu |
Vậy thì có thể nói một trong những “công tích vĩ đại” nhất của Doumer trong 5 năm cầm quyền tại Đông Dương là điên cuồng bổ thuế vào đầu dân chúng Annam.
Người Pháp tự giao cho họ cái trách nhiệm đến Đông Dương để
“khai hóa văn minh”. Nhưng văn minh đâu chỉ là những “công tích” được tóm
lược trong việc xây dựng những con đường sắt, vài tòa bưu điện, vài
tòa án, vài nha khí tượng hay thậm chí là cả những nhà thương. Thế
còn điều này thì sao: “ở Bắc kỳ, cuộc
“điều tra dân số” vào năm 1875 có 10.200.000 người và 25 năm sau, con số
này vẫn thế, mặc dù có một tỷ lệ sinh đẻ như ngựa phi. Đó đơn giản
là vì có một tỷ lệ tử vong lớn chưa từng có trước khi họ được
“khai hóa””?
Nhìn lại những “công tích” của Doumer, có thể khẳng định rằng: “những cơ cấu mà ông đặt
thành nền tảng cho cho nền cai trị của nước Pháp thực dân tại Đông
Dương và Annam nói riêng là bền vững, quá bền vững nữa là khác, và
được làm ra để tồn tại lâu dài. Nhưng đối với những người Việt Nam
yêu nước, đã hiểu được cơ cấu ấy thì không thể có một sự “thỏa
hiệp” nào với nó được nữa. Chỉ có đánh đổ nó bằng vũ lực thì
mới có thể vãn hồi được nền độc lập của Việt Nam, của cái nước
Việt Nam mà vào thời đó chưa thấy có tên trong bất cứ một văn bản
nào.
Doumer, trong cuốn hồi ký của mình hẳn đã không giấu
niềm tự hào khi vào tháng 11-1897 đã lập nên một “công tích” có lẽ còn "vĩ đại" hơn cả việc đánh thuế, đó
là ông khẳng định đã“hoàn thành việc bình định
Tonkin” qua việc mở những cuộc tấn công vào nghĩa quân Yên Thế
làm Đề Thám bị thương và buộc phải tạm hàng tại Phồn Xương. Nhưng hồi ký của ông
không nhắc đến những sự kiện diễn ra sau đó chưa đầy một tháng (12-1897). Đó
là sự kiện những người nông dân đi theo Kỳ Đồng, “một đứa trẻ kỳ lạ”
đã được “gửi sang” Algérie rồi sang Pháp khi mới chỉ 12 tuổi nay vừa
trở về nước sau tám năm “tẩy não”. Những người nông dân ấy, trong
cùng một đêm, cầm gậy, cầm mác tiến vào Hải Phòng, Hải Dương, Phủ
Ninh Giang và Thái Bình. Dù rằng
cuộc nổi loạn này gây bất ngờ với người Pháp, nhưng hậu quả là chỉ có hai
người Âu ở Hải Phòng, một bị giết và người kia bị thương. Và chính
Doumer Đại nhân đã ra lệnh một cuộc đàn áp để làm gương. Đại úy F.
Bernard, trong một bức thư viết ngày 1-1-1898, gửi về Pháp cho người
anh trai, kể lại: “Tất cả những người Pháp hèn nhát chỉ hết sợ khi đòi
hỏi chúng ta phải chặt đi vài ngàn cái đầu...Viên Công sứ Hải Dương
Robineau, vào hôm sau ngày xảy ra vụ manh động cho chặt và bêu 54 cái
đầu. Trong vài ngày tiếp theo, người ta đã hành hình 200 người Annam,
trong số đó có cả những đứa nhóc 14 tuổi, với cái tội là đã làm
rối giấc ngủ của những vị quan cai trị của chúng ta. Tất cả những
điều này thật đáng nôn mửa”.
Những người đàn bà Ninh Bình bị bắt do liên quan đến cuộc Khởi nghĩa Ba Đình |
Phải mất nửa thế kỷ nữa mới
có được điều đó”.
Và những người Việt Nam đã làm điều đó. Buổi chiều
ngày 9-10-54, những tên lính thực dân Pháp cuối cùng cuốn gói lầm lũi
rời Hà Nội qua chính chiếc cầu vĩ đại bắc qua sông Hồng. Chiếc cầu
từng mang tên Paul Doumer, ngài Đông Dương Tổng thống Toàn quyền đại
thần lắm “công” nhiều “tích”.
Những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng
bước qua cầu Long Biên
|
-------
Những đoạn in nghiêng được dẫn theo:
Người Pháp và người Annam – Bạn
hay thù? - Philippe
Devillers, Nhà Denoel xuất bản tiếng Pháp năm 1998, Ngô Văn Quỹ dịch,
NXB tổng hợp Tp. HCM in và xuất bản năm 2006.
Cảm ơn Cụ Lý!
Trả lờiXóaEm đã đọc phần 2 ngay khi Cụ vừa đăng. Rất hay. Em rất thích. Em sẽ xin Cụ đưa về bên Google.tienlang như đã xin phần 1. Em chưa đăng phần 2 vì có thông tin thời sự nóng về anh Phi Hổ, cần đăng trước.
Cứ nhấn nhá từ từ, đi đâu mà vội Cụ nhỉ!
Cụ là kho tư liệu lịch sử sống! Rất nhiều bài rất tuyệt, không ở đâu có được!
Bên em mọi người đang thảo luận sôi nổi về công- tội của Pháp.