Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025
Thứ Ba, 29 tháng 4, 2025
Tướng Lê Trọng Tấn, người hay cãi
Đại Tướng Lê Trọng Tấn
Đại tướng Lê Trọng Tấn sinh sau Đại tướng Võ Nguyên Giáp ba năm, năm nay, nếu ông còn sống thì cũng đã hơn 100 tuổi. Nhân kỷ niệm 50 năm Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước xin nhắc lại một entry Thienly đã viết về ông, cách đây nhiều năm, trên blog này.
Đại tướng Lê Trọng Tấn có một vị trí đặc biệt trong những
trang sử vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là vị tướng được
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặc biệt quý trọng và tin tưởng. Tướng Giáp từng
nói: “Trận nào có anh Tấn đốc chiến thì mình đã yên tâm 50% rồi”.
Thế nhưng, không phải không có những lúc tướng Tấn “cãi”
tướng Giáp.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Tấn là người chỉ huy đại
đoàn 312 đánh trận mở màn vào cứ điểm Him Lam và kết thúc chiến dịch bằng
việc bắt sống tướng de Castries (Đờ Cát).
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cánh quân phía Đông do ông chỉ huy
lại là đơn vị đầu tiên, thần tốc tiến vào Sài Gòn, và kết thúc
chiến dịch với tuyên bố đầu hàng của Tổng thống VNCH Dương Văn Minh.
Khi đại đoàn 312 được thành lập (27-12-1950), ông Tấn mới 36
tuổi, được giao chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy.
Ngày 14-01-1954, cán bộ chỉ huy các đại đoàn được Bộ Tổng Tư
lệnh chiến dịch phổ biến phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Mười hai ngày sau, 26-1-1954, một cuộc họp Đảng ủy bất
thường do tướng Giáp triệu tập tại hang Thẩm Púa. Tướng Giáp, sau một đêm
thức trắng, quyết định chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.
Những vị chỉ huy như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Hoàng Văn Thái... đều im lặng
hoặc băn khoăn trước đề xuất "đánh chắc, tiến chắc" được đưa ra.
Người “cãi” kịch liệt nhất là Lê Trọng Tấn, vì đại đoàn 312 vừa
mới tốn bao công sức và xương máu để đưa pháo vào trận địa, chỉ mới
được vài ngày đã phải “kéo pháo ra”, khí thế đang hăng bây giờ biết
“ăn nói” với bộ đội thế nào? Mặc dù trước đó, chính báo cáo của
ông Tấn với tướng Giáp:“Chúng tôi phải liên tục đột phá ba phòng tuyến
mới tới phía bên trong được” đã phần nào thúc đẩy quyết định
lịch sử thay đổi phương án tác chiến của tướng Giáp.
Tuy “cãi”, nhưng “quân lệnh như sơn”, ông Tấn vẫn chấp
hành, và chính ông là người đề xuất khẩu quyết "vây,
lấn, tấn, phá, triệt, diệt", được bộ đội phổ biến và áp
dụng thành công trong suốt chiến dịch.
Theo ghi chép của cựu nhà báo quân đội Bùi
Tín, “vài chục năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tướng
Giáp và tướng Tấn đã có buổi trò chuyện thân mật với báo giới về cuộc họp tại
hang Thẩm Púa. Theo lời kể vui của Đại tướng, chính người đúc kết khẩu quyết
"vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt" là vị chỉ huy phản ứng mạnh nhất
với quyết định chuyển đổi phương án tấn công của ông tại hang Thẩm Púa ngày
26/1/1954. Tướng Tấn cười, thừa nhận câu chuyện trên và cho biết: khi ấy, ông
quá lo lắng về việc chiến dịch sẽ kéo dài và phải chuẩn bị lại trận địa pháo”.
Ba mươi mốt năm sau, tướng Tấn lại “cãi” tướng Giáp.
Ngày 26-3-1975 tại Tổng hành dinh, Tổng tư lệnh chiến dịch
là tướng Giáp họp với tướng Tấn, người vừa được chỉ định là Tư lệnh mặt trận
Quảng Đà, bàn kế hoạch tiến công Đà Nẵng. So sánh tương quan lực lượng hai
bên, (tại Đà Nẵng, phía VNCH có hơn 100.000 lính và sĩ quan), tướng Tấn
đã chuẩn bị sẵn một phương án đánh chiếm Đà Nẵng trong 7 ngày, sau rút
xuống còn 5 ngày.
Tuy nhiên, Đại tướng Tổng tư lệnh lại nghĩ khác (1), tình hình
có thể diễn biến đột ngột, khả năng địch tháo chạy là rất có cơ sở. Nếu
đánh kéo dài trong 5 ngày để địch co cụm được thì sẽ hỏng việc lớn. Do vậy,
sau khi tham khảo thông tin từ Cục quân báo, tướng Giáp yêu cầu tướng
Tấn chuẩn bị phương án đánh trong 3 ngày.
Trong hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, tướng
Giáp kể lại: “Anh Tấn vẫn giữ ý kiến, và trình bày: Đánh như
vậy không thể chuẩn bị kịp. Tôi nói, giọng có phần gay gắt: “Tư lệnh mặt trận
là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng
theo phương án chuẩn bị 3 ngày. Nếu chuẩn bị 5 ngày, địch rút mất cả thì sao?
Huế đã giải phóng rồi. Mặc dầu pháo binh và hải quân địch có thể bắn phá, cứ
cho bộ đội hành quân theo đường số 1 tiến công thẳng vào Đà Nẵng. Từ phía nam
cũng theo đường số 1 tiến công lên. Không họp đảng uỷ, chỉ trao đổi bằng điện”.
Sau đó, như ta đã biết, tướng Tấn đã chấp hành và hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ. Trong vòng 3 ngày, quân đoàn 2 của tướng Tấn thổi bay
hơn 100.000 quân địch, giải phóng Đà Nẵng (2).
Sau này, khi hoàn thành chiến dịch, lúc gặp
lại tướng Tấn, tướng Giáp nói vui: “Lẽ ra mình cho cậu 5 điểm (3), nhưng
vì chuyện “3 ngày” nên chỉ cho 3 điểm thôi”.
Cần nói thêm, ý tưởng ban đầu là sau khi giải
phóng Buôn Mê Thuột, quân ta sẽ khẩn trương tiến dọc Tây Nguyên, tấn công Sài
Gòn rồi sau đó mới trở ra “giải quyết” các tỉnh đồng bằng Duyên hải. Nhưng,
quyết định mở mặt trận giải phóng Huế – Đà Nẵng của tướng Giáp là một thay
đổi cực kì quan trọng.
Sau khi chỉ huy giải phóng Đà Nẵng, tướng Tấn được cử làm Tư
lệnh cánh quân phía Đông gồm Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Sài
Gòn. Cánh quân này đã thần tốc theo đường ven biển tiến về phía Nam, nhanh chóng
phối hợp với các cánh quân khác của quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Trong trận cuối cùng đánh vào Sài Gòn, một lần nữa, tướng
Tấn lại “cãi”, nhưng lần "cãi" này thì ông hoàn toàn thuyết
phục được tướng Giáp.
Hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của
tướng Giáp cho biết: “Theo kế hoạch, 5h30 sáng 30/4/1975, các
hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía đông,
anh Lê Trọng Tấn đề nghị nổ súng từ 18 giờ ngày 29/4. Lý do là các lực lượng ta
còn cách vùng ven từ 15 đến 20km, phải vừa đánh địch vừa tiến quân, lại phải
vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nếu cùng nổ súng sẽ không đến kịp”.
Tại Hội thảoTổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975,
tướng Giáp xác nhận: “Cánh quân phía Đông là sáng tạo của Bộ Tổng Tham
mưu vì nó không có từ đầu trong kế hoạch giải phóng miền Nam”(4).
Kết quả là mặc dù cánh quân của tướng Tấn ở cách xa nội đô
hơn các mũi khác, nhưng họ lại là những chiến sĩ đầu tiên tiến vào
Dinh Độc Lập, bắt sống nội các cuối cùng của chính quyền VNCH.
Chiến công của sư 312 trong chiến dịch Điện Biên phủ và
cánh quân phía Đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đều in đậm dấu
ấn chỉ huy của vị tướng “hay cãi”, Đại tướng Lê Trọng Tấn.
--------------
(1) Hai ngày trước đó, trong cuộc
họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương (ngày 24/3), tướng Giáp phân
tích: “Nếu chúng thoát được vào phía nam thì cuộc Tổng tiến công của ta ở
chiến trường trọng điểm sẽ gặp khó khăn. Vậy ta cần nhanh chóng đánh chiếm Đà
Nẵng, tiêu diệt sinh lực của địch ở đây, tạo thuận lợi phát triển tiến công
trong các bước sau. Chúng có thể "tử thủ", cũng có thể rút, rút nhanh
hay rút chậm, nhưng ta thì phải chuẩn bị đánh trong tình huống địch rút nhanh,
nhất thiết phải đánh nhanh. Không chờ giải phóng xong Huế, mà ngay từ bây giờ,
phải bắt đầu mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Nhanh chóng đánh chiếm các điểm
cao, cho xe tăng thọc sâu ngay, tận dụng tối đa khả năng của pháo binh để tiến
công Đà Nẵng”.
(2)Theo tướng Cao Văn Viên, đại tướng, Tổng
tư lệnh Quân đội VNCH (The final collapse), Quân đoàn I của phía
VNCH đồn trú tại Đà Nẵng lúc ấy sở hữu một khối lượng binh lực, vũ khí,
phương tiện chiến tranh và dự trữ hậu cần rất lớn gồm 134.000 sĩ quan và binh
sĩ, trong đó có 84.000 quân chủ lực và 50.000 quân địa phương; 449 xe tăng, xe
bọc thép; 418 khẩu pháo lớn có cỡ nòng từ 105mm đến 175mm; 27 xe bọc thép M-42
gắn cao xạ 40 mm 2 nòng; 37 xe cùng loại gắn súng máy 6 nòng loại Vulcan;
373 máy bay, trong đó có 96 máy bay chiến đấu; 165 tàu, xuồng các loại.
(3) Thang điểm hệ đại học bấy giờ, mức tối đa là 5
điểm.
(4) Bài viết: “Mãi mãi nhớ anh Tấn” của Trung
tướng Lê Hữu Đức đăng trên Tạp chí Xưa và Nay.
Thứ Năm, 24 tháng 4, 2025
Những người cắm cờ tại dinh Độc Lập trưa 30-4-1975
Hai tấm ảnh dưới đây được Thienly tìm thấy từ
bài viết "Những khoảnh khắc quyết định trong ngày 30/4/1975 (Kỳ 1)"
được Tạp chí Phương Đông, thuộc Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông (ORDI) đăng
hôm Thứ 3, ngày 22-04-2025 vừa qua.
(https://ordi.vn/nhung-khoanh-khac-quyet-dinh-trong-ngay-30-4-1975-ky-1.html)
Trong phần giới thiệu, Tạp chí Phương Đông cho biết đây là "một số trích đoạn từ cuốn sách sắp xuất bản “30-4-1975, sau 50 năm nhìn lại” của tác giả Nguyễn Hữu Thái, nguyên Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn, một trong những người cắm cờ Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập".
Có lẽ, các bức ảnh này đã được KTS Nguyễn Hữu Thái
đưa vào trong cuốn sách sắp xuất bản ấy. Do hiên giờ không tìm ra nguồn gốc, tác giả của các bức ảnh, tạm thời xác nhận "nguồn" ảnh là từ KTS Nguyễn Hữu Thái cung
cấp vậy.
Ảnh 1
Trên ảnh đã có sẵn ghi chú, từ trái sang
phải lần lượt là Tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng, anh Bùi Quang Thận, Sinh viên Nguyễn
Hữu Thái và anh Trần Đức Tình. Đó chính là bốn người đã tham gia sự kiện
"Cắm cờ trên Dinh Độc Lập" vào trưa 30-4-1975.
Xem ảnh, ta thấy lá cờ ba sọc còn chưa được tháo ra hoàn toàn. Có lẽ anh Thận đang buộc hoăc luồn dây ở mép dưới lá cờ Giải phóng, còn ông Nguyễn Hữu Thái giúp làm viêc đó ở phần trên của lá cờ. Ông Huỳnh Văn Tòng thì đang hỗ trợ anh Thận bằng việc tách một đầu dây treo. Riêng anh Trần Đức Tình đang hào hứng phất một lá cờ giải phóng khác. Anh Thận đội mũ tiêu âm của lính xe tăng còn anh Tình đội mũ cối, đặc trưng của bộ binh.
Như vậy, trước khi anh Thận hoàn tất việc "cắm cờ" thì đã có việc phất cờ của anh Tình rồi. Nói vậy, không phải là để làm giảm vị thế người anh hùng cắm cờ Dinh Độc Lập - trung úy xe tăng Bùi Quang Thận, nhưng cũng không thể quên vai trò của chiến sĩ bộ binh Trần Đức Tình vậy.
Và cũng từ bức ảnh 1 này có thể hình dung ra, liền
ngay sau khi bộ đội xe tăng của Lữ đoàn 203 phá cổng dinh, thì các chiến sĩ thuộc
các đơn vị bộ binh phối hợp chiến đấu cung đơn vị xe tăng, như anh Trần Đức Tình, cũng đã theo sát gót
các anh Bùi Quang Thận và Vũ Đức Toàn vào dinh rồi.
Vài thắc mắc:
1. Không biết anh Tình đi lối nào (thang máy, thang
bộ?), hay là đi cùng một lượt với anh Thận, mà khi anh Thận còn chưa hoàn toàn
tháo xong cờ ngụy, thì anh Tình đã có ở đó để phất cờ.
2. Thật sự mình không hiểu làm cách nào để có
thể chụp được bức ảnh 1 trên. Để có được bức ảnh 1 này, thì vị trí ống kính phải đặt
ở trên cao (gần như là nhìn ngang) hoặc phải lùi ra rất xa. Chẳng hạn với một bức
ảnh khác dưới đây (ảnh 2), với vị trí người chụp đứng ở khoảng giữa sân nhìn
lên thì vẫn thấy hai lá cờ giải phóng, nhưng không thể nhìn thấy người phất cờ.
3.Trong ảnh 2 thì lá cờ mà anh Thận treo lên đang ở vị trí lưng chừng cột cờ. Cờ đang được tiếp tục kéo lên phía đỉnh cột? Hay chỉ kéo tới lưng chừng cột là ngưng? Vẫn còn thấy hai lá cờ giải phóng đang ở trên sân thượng nhưng sự thư thái của các chiến sĩ trên chiếc xe tăng 844 cho thấy: dường như ở thời điểm chụp bức ảnh 2 này, việc cắm cờ (thực ra là treo cờ), cùng với các sự kiện quan trọng khác đã hoàn thành.
Ảnh 2
-------------
Thêm chút, về anh Trần Đức Tình:
Anh Tình là chiến sĩ thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh 9, sư 304, Quân đoàn II. Đại đội 6 là đơn vị được đề nghị phối hợp chiến đấu với Đại đội 4, Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2 do Trung úy Bùi Quang Thận chỉ huy.
Vào tới Dinh Độc Lập, đại đội 6 chỉ còn 15 người.
Trích từ bài viết trên báo QĐND vào ngày 28-04-2014 (https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/linh-bo-binh-vao-dinh-doc-lap-440603):
"Các chiến sĩ Đại đội 6 nhảy xuống khỏi 2
xe tăng 843 và 390 gồm: Trần Đức Tình, Trần Văn Tàu, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn
Văn Sản, Trần Mạnh Đề, Chử Đức Hải, Nguyễn Văn Đấu được lệnh Thiếu úy Chính trị
viên đại đội Nguyễn Duy Ân, gom toàn bộ số lính ngụy đưa vào góc sân dinh. Khi
thấy Trung úy - Đại đội trưởng xe tăng từ xe 843 cầm lá cờ giải phóng, vượt qua
sân vào Dinh Độc Lập để cắm cờ trên đỉnh nóc dinh Tổng thống ngụy quyền Sài
Gòn, thì Trần Đức Tình, Bùi Huy Linh liền lao theo. Khi tới sân thượng nơi cột
cờ, Tình liền rút dao găm, chặt đứt đầu dây ghì cột cờ rồi từ từ hạ lá cờ vàng
3 sọc đỏ xuống để đồng chí Bùi Quang Thận thay lá cờ giải phóng rồi kéo lên
đỉnh cột đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975".
------------------
Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025
Ai nói dối?
Và còn có một bản thảo Tuyên bố đầu
hàng nữa do chính ông Dương Văn Minh viết?
Trên
trang https://www.facebook.com/groups/Xetang2016/permalink/2061377664002117/
Tác giả Le Dao cung cấp một tài liệu đánh máy được phát hiện năm
2020. Tài liệu đề ngày 30/5/1990, do chính Chính ủy Bùi Tùng thực hiện. Nội
dung tài liệu tường thuật lại các "sự kiện trưa ngày 30/4/1975 tại phủ
tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và tại đài phát thanh Sài Gòn (cũ )".
Có
lẽ tài liệu này được ông Bùi Tùng chuẩn bị cho việc phát biểu trong một hội
nghị nào đó, vì ngay đầu trang có hai chữ "Kính thưa", nhưng sau thì
ông gửi đi. Một bản (tài liệu này) kèm theo thư tay của ông Tùng được gửi đến ông Đào Văn
Xuân, nguyên là phó Chính uỷ Bộ tư lệnh bộ đội Tăng-Thiết giáp. Bản này được tác giả
Le Dao xin phép ông Đào Văn Xuân phổ biến.
Về
độ tin cậy, đây là một tài liệu do ông Bùi Tùng viết về ... chính ông. Vậy ít
nhất, đối với tôi nó đáng tin cậy hơn so với những gì do các nhà văn, nhà báo,
nhà thơ, nhà điện ảnh ... nói hay viết về ông Bùi Tùng. Hơn nữa, chính ông Bùi
Tùng, trong tài liệu này cũng viết, nguyên văn: "Sự việc trên đây tôi chưa kể cho ai ngoài các nhà báo nhà văn chủ
động đến hỏi tôi".
Toàn văn văn bản đã được tác giả Le Dao chuyển từ bản ảnh sang bản chữ vi tính, kèm theo nhiều hình ảnh. Bạn nào muốn tìm hiểu đầy đủ, xin vào link đã dẫn ở trên.,
Trước
tiên chân thành cám ơn tác giả Le Dao, và entry này xin trích đoạn liên quan tới bản thảo Tuyên bố đầu hàng như sau:
"Sẵn tập pơ-luya xanh nhạt trên bàn tôi lấy một tờ thảo
chữ viết bằng bút máy bi to và rõ . thảo xong (2) tôi đưa cho Minh. Minh xem
xong và nói : “ “ Thưa ông , đề nghị ông bỏ hai chữ tổng thống “ . Tôi hỏi lại
: “ anh lấy cương vị gì để ra lệnh cho sỹ quan và binh sỹ anh hạ vũ khí đầu
hàng vô điều kiện và anh đứng cương vị nào để giải tán được chính quyền của anh
từ trung ương đến địa phương , phải là người cầm đầu của chính quyền này chứ ,
mà theo tôi biết người cầm đầu của chính quyền này là tổng thống ? “. Minh
nói:” đúng , đúng , ông nói đúng , nhưng thưa ông tôi không thích cái tổng thống
này , dân chúng và binh sỹ họ cũng không thích tổng thống này , chỉ cần để đại
tướng là họ sẽ nghe theo tôi “. Tôi bực mình và nghiêm sắc mặt nói với Minh : “
anh chỉ có sỹ quan và binh sỹ của anh thôi.Anh nói anh không thích tổng thống
này là không đúng . Chính anh đã nhận tổng thống từ tay Trần Văn Hương và anh
đã làm tổng thống ba ngày rồi , tại sao anh nói anh không thích ?”. Đuối lý ,
Minh chịu.Tôi lại bảo : “ Đây là những điều kiện của chúng tôi , còn lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện của
anh thì anh phải ghi lại”.trong khi
Minh đang chép lại lời đầu hàng , tôi lại nghĩ có kẻ đầu hàng thì phải có
người chấp nhận đầu hàng , nếu không dân chúng tưởng do lòng tốt của Minh và tự
Minh đơn phương đầu hàng , chứ không phải do ta đánh tận vào sào huyệt và bắt
chúng phải đầu hàng". (hết trích)
Như
vậy, theo tường thuật của Chính ủy Bùi Tùng thì:
1.
Chính ủy Bùi Tùng đã yêu cầu ông Dương Văn Minh phải chép lại lời Tuyên bố đầu
hàng do ông Tùng soạn thảo.
2.Trong
khi ông Minh đang chép lời Tuyên bố đầu hàng thì ông Tùng soạn lời Chấp nhận đầu
hàng.
Cứ theo logic mà luận, thì ông Minh, chép xong, phải trả bản thảo lại cho ông Tùng, rồi tới khi đọc thì phải đọc bản do mình tự chép. Còn nếu đọc bản của ông Tùng viết thì ông Tùng bắt ông Minh chép để làm gì?.
Vậy
thì bản của ông Minh chép (rồi đọc) mới thật sự là bản thảo cuối cùng trong số
các bản thảo Lời chấp nhận đầu hàng. Hơn hết, bản này mới xứng đáng được đặt một
cách trang trọng trong bảo tàng.
Trên mạng xã hội và trên vài tờ báo dẫn ra tấm ảnh chụp bản thảo đã cũ, nhàu, nói rằng đây là bản thảo gốc ông Tùng viết cho Dương Văn Minh đọc.
Ông
Nhà báo, nghệ sĩ ưu tú Phạm Việt Tùng, trả lời phỏng vấn về bộ phimSự thật trưa 30/4/75, nói
vê bản thảo này như sau:
"Chúng
tôi hiện vẫn còn giữ được ảnh chụp (tại bảo tàng Quân đoàn 2) bản viết tay Lời
tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, nét chữ của ông Bùi Văn Tùng,
có cả những chỗ gạch xóa.
Câu chữ trong bản viết
tay này rất khớp với lời tuyên bố đầu
hàng của ông Dương Văn Minh đọc đã phát đi trên sóng phát thanh".
Bài báo cũng đăng kèm bức ảnh mà Phạm Việt Tùng đề cập.
Vẫn lời ông Phạm Việt Tùng, nói về bản thu âm lời Tuyên bố đầu
hàng:
"Đó
cũng là bản thu âm duy nhất chúng ta có được đến giờ. Ông Nguyễn Nhã đã cho tôi
mượn cái băng này và cho phép tôi được sao chép lại làm nhiều bản. Lúc đó tôi
chưa thực sự tin ông Thệ “ăn gian”. Đêm hôm ấy, tôi nghe đi nghe lại, tôi thấy
nội dung lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh không giống với
lời ông Thệ đã nói lúc trước. Tôi phát hiện điều thứ 2 ông Thệ nói dối.
Lúc đó, tôi kinh ngạc đến mức không ngủ được. Tôi tin tôi đã tìm ra sự thật thứ
2 bị vùi lấp".
Vâng, cái ảnh, theo Đạo diễn Phạm Việt
Tùng "là ảnh chụp (tại bảo tàng Quân đoàn 2) bản viết tay Lời tuyên bố
đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, nét chữ của ông Bùi Tùng, có cả những
chỗ gạch xóa" là đây:
Xin chép lại cho dễ đọc, những chữ chuyển vào trong ngoặc
(...) là những chữ ông Bùi Tùng viêt chèn:
"Tôi (đại tướng)
Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài gòn kêu gọi quân lực cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân giải
phóng miền nam Việt nam.
Tôi tuyên bố chính quyền
Sài gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền (từ trung ương đến
địa phương) lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời (cộng hòa) miền nam Việt Nam".
Nguyên văn ông Minh đọc trên Đài Phát thanh Sài Gòn như sau, (chép lại từ
bộ phim Chuyện kể 30 tháng 4 - Nhân chứng thứ ba của VTV).
"Tôi đại tướng
Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài gòn kêu gọi quân lực Việt Nam cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân
giải phóng miền nam Việt nam.
Tôi tuyên bố chính quyền
Sài gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn.
Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam"
Ông Phạm Viêt Tùng nói: "Câu
chữ trong bản viết tay này rất khớp với lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn
Minh đọc đã phát đi trên sóng phát thanh".
Có "rất khớp" không???
Ông Bùi Tùng viết "quân lực cộng hòa", và ông Minh
đọc thành "quân lực Việt Nam cộng hòa".
Ông Bùi Tùng viết "giao toàn chính quyền (từ trung ương
đến địa phương) lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời (cộng hòa) miền nam Việt
Nam", và ông Minh đọc: "Từ trung ương đến địa phương trao lại cho
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam".
Sao thế nhỉ, ông Minh chép văn bản từ ông Bùi Tùng rồi đọc, mà lại dám "sáng tác thêm" ư? Ghi âm đi ghi âm lại ít nhất ba lần cơ mà? Mà lần cuối vẫn
không khớp?
Không khớp, càng không thể tùy tiện bảo là "rất khớp".
Nói như ông Phạm Việt Tùng là dối trá.
Hay là cái bản Tuyên bố đầu hàng nhàu nát trên là do ông Bùi Tùng viết lại sau này?
Khác với ông Phạm Việt Tùng "kinh ngạc đến mức
không ngủ được" khi phát hiện ai đó nói dối, Locliec thật sự chả ngạc
nhiên chút nào.
----------------
Nhân tiện, thêm tý nữa:
Nhân chứng Borries Gallasch trả lời
phỏng vấn Đài truyền hình quốc tế ngay trước cổng Dinh, cho thấy anh bộ đội cầm
K54 cũng tham gia soạn thảo văn bản đầu hàng:
(
link video: https://www.youtube.com/watch?v=Ns2Fe5mQ0YU, từ phút 21 đến phút 23, phụ đề:)
"Mất 5 đến 10 phút sĩ quan Tùng mới thảo xong bản Tuyên bố đầu hàng để Tổng thống Minh lớn đọc trên Đài Phát thanh. Anh ta trao mẩu giấy cho tướng Minh lớn. Tướng Minh đọc nó và không bằng lòng với câu mở đầu viết như sau:Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chế độ Sài Gòn. Minh lớn phản đối danh hiệu này vì ông nói ông chỉ làm tổng thống, chỉ gọi là tổng thống, chứ không phải là tổng thống theo hiến pháp. Ông muốn đọc rằng: Tôi, tướng Minh, yêu cầu các lực lượng Sài Gòn hạ vũ khí và đầu hàng. Đó là câu ông đã muốn, nhưng sĩ quan Tùng, sau khi trao đổi với sĩ quan đi cùng, người này vẫn cầm cây K54 để đảm bảo không ai trốn đi được. Sau cùng, anh ta cũng không làm Minh lớn hài lòng. Nhưng bạn biết rõ, họ là người kiểm soát tình hình, chứ không phải đàm phán".
Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2025
AI LÀ THẠCH SANH?
Giờ là lúc trả lời
câu hỏi thứ hai: Trong ba anh, anh Tùng, anh Tín và anh Thệ, ai là người nói
dối? Hay hỏi một cách khác, ai là Lý Thông, ai là Thạch Sanh?
Thực ra câu hỏi này
đã được những thông tin từ Viện NCLS Quân đội, và nhất là Kết luận số
974-KL/QƯTW ngày 14/3/2022 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, trả lời dứt khoát. Thường vụ Quân ủy TƯ gồm những ai thì... thú thực là tôi không biết.
Nhưng kỷ niệm 50 năm Chiến thắng, ta cứ
tán thêm cho xôm tụ.
Muốn tìm ra chàng
Thạch Sanh, thì phải tìm cái vật bất ly thân của chàng, tức là cái búa. Ông
Dương Văn Minh là Đại tướng, các anh mình xông vào bắt sống, giả sử quân hàm
cao nhất là anh tá Tín, nhì là anh tá Tùng, thì cũng còn lâu Đại tướng mới sợ.
Đấy là nói nếu các
anh mình dám khoe ra cái quân hàm, chứ thực ra lúc chiến đấu chả ai ngu đến mức đi
khoe với địch mình là cán bộ cao cấp, hay trung cấp, bằng cách trưng quân hàm.
Chính vì chả ai mang quân hàm, nên anh Tùng không biết anh Thệ, và ngược lại.
Còn anh Thệ, thậm chí còn tệ hơn, vì không biết (nên vặc lại) cả xếp QĐ2 là Phó Chính ủy Nguyễn Công Trang.
Ông Minh và nội các
ngụy thì lại càng không biết anh nào với anh nào và càng không sợ các lý luận chính trị của các anh mình.
Khà khà... họ chỉ sợ, và đầu hàng, và chịu đọc lời đầu hàng, khi các anh mình lúc nào cũng lăm lăm trên tay những chiếc búa Thạch Sanh dài ngắn tân thời trước họ mà thôi.
Ngày xưa tướng De
Castries, chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ dẫn cả bộ tham mưu ra đầu
hàng trước các chiến sĩ trẻ, có anh chỉ mới 17 tuổi, thuộc tổ xung kích do anh Tạ
Quốc Luật chỉ huy. Hồi ấy các anh còn chưa được đeo quân hàm binh nhất, ai sợ.
Cái mà tướng De Castries dày dạn trận mạc sợ nhất chính là nòng súng tiểu liên
trong tay mấy anh trẻ măng, đã không thèm có quân hàm, lại còn có thể chưa biết chữ nữa
cơ...
Để tìm ra chàng Thạch
Sanh mang búa, thì chỉ cần xem ảnh, rồi xem video, rồi đọc thêm tư liệu về ngày 30-4 năm
ấy mới thấy rõ ràng, từ đầu đến cuối, toàn thấy anh Thệ, cùng các đồng đội E66 là
mang búa Thạch Sanh tân thời vào Dinh, áp giải Tổng thống và Thủ tướng ngụy sang
Đài Phát thanh rồi lại đưa về.
Không phải các anh bộ
đội xe tăng mình không có búa. Họ phá cổng, vào Dinh trước, cắm cờ giải phóng,
nhưng xe tăng của họ to quá, lại vừa là nhà, vừa là bếp, lại là tài sản
đắt giá của quân đội nên buộc họ phải quay lại xe để bảo vệ vũ khí, khí tài
đồng thời còn phải bảo đảm thường trực chiến đấu chống phản kích bất cứ lúc nào.
Mệnh lệnh là thế, tình huống là thế, mỗi người mỗi việc, nếu không, chưa chắc đã tới lượt anh Thệ mình.
Anh tá Tín và anh tá
Tùng, không phải là Thạch Sanh, vì không thấy mang búa ra. Chả ai sợ. Ông
Minh, đại tướng cơ mà, lại càng không nể các anh chỉ có lý luận mà lại không giơ búa. Mao Trạch Đông đã dạy rằng, "Quyền lực chính trị sinh ra từ nòng súng" cơ mà.
Anh Thệ, và các đồng
đội E66 của anh, mới là Thạch Sanh đích thực. Họ xông pha vào nơi và vào lúc
nguy hiểm nhất, đó là lúc đưa tướng Minh sang đài phát thanh. Khi ấy chưa có
tuyên bố đầu hàng, tàn quân và vũ khí ngụy trên đường phố SG không hiếm. Ai dám
đảm bảo không có một phát súng hay một trái lựu đạn sẵn sàng hướng vào xe chở
người đứng đầu chính quyền trên đường đi tuyên bố đầu hàng. Bản thân ông Minh cũng rất sợ bị "khử" và chỉ
chịu đi khi anh Thệ cùng các chiến sĩ E66 cam kết (và đã thực hiện cam kết) bảo
vệ ông an toàn bằng chính tính mạng của họ. Họ đi 6 người, bốn người che ông Minh ngồi ghế trước, hai người che ông Mẫu phía sau. Anh Tùng "khôn" hơn, anh đi sau và đi nhờ xe nhà báo cho an toàn.
Vậy thì chưa nói đến chuyện ai là người chấp bút lời Tuyên bố đầu hàng, chỉ cần với vai
trò là người trực tiếp cầm súng bắt, ra lệnh rồi áp giải Tổng thống VNCH Dương Văn Minh sang Đài phát thanh đọc Tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện, chàng Thạch Sanh Phạm Văn Thệ hoàn toàn xứng đáng đi vào lịch sử với tư thế một người anh
hùng.
Anh Bùi Tùng, với những thành tích đặc biệt trong Kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng đã được anh Thưởng Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng Anh hùng LLVTND ngày 17/10/2023.
Riêng anh Bùi Tín cũng sẽ đi vào lịch sử, nhưng có thể, với tư cách là con cháu nhà cụ Lý, người Việt gốc Khmer ...
Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025
30-4-75, AI LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐÒI CHÍNH QUYỀN NGỤY PHẢI ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN?
Ngày 30/4/1975, ai là người đầu tiên yêu cầu chính quyền
ngụy VNCH phải đầu hàng vô điều kiện, không còn gì để thương lượng, bàn giao???
Ban đầu, cứ tưởng
người đó là trung tá Bùi Tùng, chính ủy lữ đoàn tăng-thiết giáp 203. Anh nhận
mình chính là người nói với ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền VNCH:
“Các ông chẳng còn gì để bàn giao, chỉ có đầu hàng không điều kiện. Ông phải ra
ngay Đài Phát thanh để tuyên bố đầu hàng”.
Tiếp theo, (suýt)
tưởng đến thượng tá Bùi Tín, nhà báo. Anh này cũng nhận mình là sĩ quan có quân
hàm cao nhất, nên đủ tư cách để tiếp nhận đầu hàng, và nói với Dương Văn Minh:
"Các ông không còn gì để bàn giao".
Và cuối cùng là anh
Phạm Xuân Thệ. Anh Thệ, lúc bấy giờ chỉ là đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66,
bộ binh. Sau khi ông Nguyễn Hữu Hạnh giới thiệu ông Dương Văn Minh với anh Thệ,
ông Minh bước tới thận trọng: “Chúng tôi biết quân giải phóng tiến vào nội đô.
Chúng tôi đang chờ quân giải phóng vào để bàn giao”. Anh Thệ kiên quyết: “Các
ông đã bị bắt làm tù binh. Các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện chứ
không có gì để bàn giao”.
Trong 3 người này, ai
là người nói dối???
Cứ tà tà, câu hỏi này
sẽ được trả lời sau.
Giờ hãy trở lại câu
hỏi đặt ra lúc đầu: Ai là người đầu tiên
yêu cầu chính quyền ngụy VNCH phải đầu hàng vô điều kiện, không còn gì để
thương lượng, bàn giao?
Đáp án chắc cũng
không hề bất ngờ với những ai chịu đọc:
Không phải ông Tùng,
ông Tín, cũng không phải anh Thệ.
Đó chính là cụ Phạm
Hùng. Cụ Phạm Hùng bấy giờ là Chính ủy chiến dịch Hồ Chí Minh còn Đại tướng Văn
Tiến Dũng là tư lệnh chiến dịch.
Nguyên văn mệnh lệnh
hỏa tốc của Chính ủy Phạm Hùng phát đi (sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố lúc
9h30 trên đài Phát thanh Sài Gòn về việc "bàn
giao chính quyền trong vòng trật tự"), như sau:
“Địch đang dao động
tan rã, các cánh quân hãy đánh mạnh, tiến nhanh, chiếm các mục tiêu đúng qui
định. Hội quân tại Dinh Độc Lập. Địch không còn có gì để thương lượng bàn giao,
chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Tiến lên! Toàn thắng!
Chính ủy chiến dịch:
Phạm Hùng.”
Vậy người đầu tiên
yêu cầu chính quyền ngụy VNCH phải "đầu hàng vô điều kiện, không còn gì để
thương lượng, bàn giao" phải là cụ Phạm Hùng.
Tán thêm một chút,
thì người "gợi ý" cho cụ Phạm Hùng ra mệnh lệnh này, lại chính là ông
Dương Văn Minh, vì ông Minh là người ngỏ lời, muốn "bàn giao chính quyền" qua Đài Phát
thanh SG.
Hai tiếng sau đó, xe
tăng mới húc đổ cổng dinh Độc Lập, vì thế cho dù bất cứ ai xông vào bắt sống
Tổng thống Dương Văn Minh và Nội các ngụy thì cũng phải nói theo lệnh cụ Phạm
Hùng mà thôi, không cứ phải là chính ủy hay nhà báo thì mới nói được câu
này.
----