Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

Đọc chơi: ĐỊA DANH VÔ TÍCH

 


Khi Vô Tích, khi Lâm Truy.

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương

...

Ba quân chỉ ngọn cờ đào,

Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy...

Đó là hai câu thơ trong Truyện Kiều, nói tới địa danh Vô Tích.

Thời Xuân Thu chiến quốc, thì Lâm Truy là kinh đô nước Tề, còn Vô Tích thuộc nước Sở.

Trong chữ Hán, chữ Tích có nhiều cách viết, và cũng mang nhiều (vài chục) nghĩa, nhiều nghĩa thường gặp trong tiếng Việt, như: tích - xưa, tích - dấu vết, tích - tết (bện), tích - tiếc, tích - sáng, tích - tách, tích - chứa.. v..v...

Chữ Tích () trong địa danh Vô Tích, gồm chữ Dịch, đứng cạnh bộ Kim, có nghĩa là Thiếc, kim loại, (ký hiệu hóa học: Zn).

Đọc Đông Chu liệt quốc mới biết, nghĩa của Vô Tích là "không có thiếc".

Tên gọi này do Vương Tiễn, một danh tướng của nước Tần, đặt ra.

Năm 225 TCN, Vương Tiễn theo lệnh của Tần vương (Tần Doanh Chính, sau này gọi là Tần Thủy Hoàng đế), chinh phạt nước Sở. Quân Tần tiến vào Thọ Xuân, bắt sống vua nước Sở. Tướng Sở là Hạng Yên lập tôn thất nước Sở tên là Xương Bình quân lên ngôi, bỏ chạy về Lam Lăng, phía nam sông Trường Giang. Vương Tiễn lại kéo quân từ Anh Vũ Châu (Bãi Anh Vũ) đuổi theo chiếm thành Lam Lăng, diệt nốt Hạng Yên và Xương Bình Quân, sau đó tiếp tục đưa binh mã xuống càn quét miền Nam.

Vào khoảng năm 223 TCN, khi đóng quân ở núi Tích Sơn, quân lính của Vương Tiễn đào đất làm bếp thổi cơm, đào được một cái bia đá. Đem lên, thấy ở trong có khắc 12 chữ rằng:

“Hữu tích: binh, thiên hạ tranh;

Vô tích: ninh, thiên hạ thanh” .

Nghĩa là khi có thiếc thì đánh nhau, thiên hạ loạn; khi không có thiếc thì yên ổn, thiên hạ yên.

Vương Tiễn cho gọi thổ nhân (dân dịa phương) đến hỏi. Người này nói, từ khi vua Bình Vương nhà Chu dời sang đất Lạc (722 TCN), do núi ấy sản ra nhiều chì thiếc, nên gọi là Tích Sơn, 40 năm nay lấy dùng không hết, gần đây ít dần. Bia ấy cũng không biết người nào làm ra.

Vương Tiễn than rằng:

"Bia này lộ ra, thiên hạ từ đây được yên ổn, có lẽ người xưa đã xét thấy cái số (đã) định, nên chôn bia để bảo người sau đó chăng.

Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô Tích".

Hai năm sau, Tần Doanh Chính diệt nốt các nước chư hầu, bình định thiên hạ, chấm dứt hơn nửa thế kỷ chia cắt Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.



----------

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Đọc chơi: "Thay đổi địa danh" (trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hồ)

 

Phủ Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện trong phủ Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ, đời Lý đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh Xương, huyện Thanh Oai khi trước là Thanh Oai (1), huyện Thanh Trì trước kia là Thanh Đàm (2); chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương (3) nên mới phải bớt nét đổi là thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn (4) nên đổi ra chữ trì. Còn như trung lộ sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh Trì; Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm, huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt tên cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ Giang. Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy Lộ; Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại như kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu (5) tiếp giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ sông bị nước xói, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc suốt dọc bến phường Hà Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá làm mỏ hàn chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông, về phía nam, dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc. Bởi thế, những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các (6), nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố phường đô hội cả. Quê ta khi xưa là Hồng Lộ (nay là phủ Bình Giang), sau đổi là Hồng Châu, lại phân ra làm hai phủ Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang). Huyện ta làng Bùi Xá có ông Giám sinh tên là Nguyễn Luật; khi nhỏ ra chơi đùa ở làng ấy, ta thấy có một cái lò đất nung kiểu Trung Hoa, dưới đáy lò có thấy ghi mấy chữ: “Nhân Hồng phủ, Đường An huyện, Bùi Xá xã, Nguyễn mỗ công đức”, không biết cái lò ấy là tự đời nào. Huyện ta với huyện Đường Hào khi xưa hợp lại làm huyện Đường An. Ta thường hỏi cụ Phạm Quý Thích (7) về thời đại thay đổi, cụ cũng không được tường lắm. Còn như làng Hoa Đường (8) nguyên trước là Bồng thôn thuộc về xã Ngọc Cục, sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng. Xem trong “Đăng khoa lục” ghi chép quán chỉ (9) các đấng tiên hiền thì khá biết rõ.

Làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nguyên trước là xã Ngọc Ổi, sau đổi là xã Nhị Khê, theo biệt hiệu của một vị hương hiền là cụ Nguyễn Phi Khanh. Cụ Phong sinh ra ông Nguyễn Trực (10) người huyện Thanh Oai, là bậc ẩn dật không ra làm quan, biệt hiệu cụ là Bối Khê, nên làng cụ cũng theo biệt hiệu cụ mà gọi là xã Bối Khê. Khoảng năm Trung hưng, làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm có đào được cái chuông cổ ở chùa Diên Khánh. Mặt chuông có bài minh: “Đống Ngạch phường, Diên Hựu (11) tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân (12) thi kim nhất lạng” (13). Chữ rất cổ; hỏi thì các bô lão nói rằng phường Đống Ngạch xưa là đất làng Thụy Hương (Chèm) sau mới tách ra làng Đông Ngạc. Còn như chùa Diên Hựu mà đổi làm chùa Diên Khánh là để tránh phạm húy. Cuối đời Lê, cụ Phan Trọng Phiên có soạn bài khoán văn về việc trùng tu: “Chung minh Diên Hựu chi niên, tùng mậu trường thu chi âm” (14) cũng là trở về cái bài minh chùa Diên Hựu là Đông Ngạc vậy. Huyện Gia Phúc có bốn xã: Đỗ Tùng, Đoàn Tùng, Đào Tùng, Phạm Tùng. Cụ Đỗ Uông có làm bài ký cầu Phú Cốc (15) gọi là Tứ Tùng, tức là bốn xã trên. Sau để tránh tên húy Triết Vương (16), nên đổi là Tứ Kha.

Trấn An Bang vì tránh tên húy vua Anh Tông (17) nên đổi là An Quảng. Huyện Tân An, Duy Tân, Tân Phúc vì tránh tên húy vua Kính Tông (18) nên đổi chữ Tân ra chữ Tiên. Đạo Tuyên Quang ở vào đời vua Tương Dực đế (19) gọi là Minh Quang, nay mới gọi là Tuyên Quang, hoặc bảo là vì tránh niên hiệu Minh Đức (20) nhà Mạc mới gọi là Tuyên Quang. Song từ đời Lê Thái Tổ, trong sách Thực Lục đã gọi là Tuyên Quang rồi, như vậy không phải mới đổi từ đời Mạc. Gia Hưng, Quy Hóa, hai lộ hợp lại làm một, gọi là Hưng Hóa thừa tuyên, chép rõ ở trong sách Phong tục tổng lục. Thanh Hóa ở đầu đời Lê gọi là Thanh Hoa, đến đời trung hưng cũng gọi là Thanh Hoa. Vọng Giang về đời Trần là một trấn, khi thuộc đời Minh thì là một phủ. Tam Giang đổi là Tam Đáp, đều không biết đổi tự năm nào. Cụ Lê Quý Đôn (21) ở huyện Thiên Hà là bậc học thông minh rộng rãi, làm lãnh tụ trong nho lâm, khi sang sứ Trung Hoa, có vào yết kiến quan Đề học tỉnh Quảng Tây là Chu Bội Liên. Ông ta hỏi có chuyện Chiểu Lăng ở bên nước Nam nay thuộc về tỉnh, đạo nào. Cụ Lê Quý Đôn không thể đáp lại được. Khi trở về, hỏi ra thì chính là huyện Diên Hà. Năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt (22) có định sửa lại bản đồ trong thiên hạ, chia phủ Cao Bình (tức là Cao Bằng) gồm bốn châu thuộc đạo Thái Nguyên. Lúc đời Lê mới trung hưng, người Minh quy định cho họ Mạc ở đất ấy. Họ Mạc giữ đất Cao Bình bốn mươi bẩy năm. Nạn nội chiến tiếp diễn liên miên. Câu hát “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; nàng về nuôi cái cùng con, cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng.” là của vợ các chú lính phải đi chinh chiến lúc bấy giờ làm ra (23). Khoảng năm Khang Hy (24) đời nhà Thanh, quan trấn thủ Vân Nam là Ngô Tam Quế làm phản, họ Mạc cứu viện cho Ngô Tam Quế nên triều Lê mới tư sang Trung Hoa để họ cùng đưa binh sang đánh diệt họ Mạc, rồi đặt Cao Bình là một trấn, sai ông Võ Công Vinh lên làm Đốc trấn. Về sau, cứ theo thế, sai quan văn lên làm Đốc trấn, cũng giống như trấn Lạng Sơn, vì Cao Bình, Lạng Sơn bờ cõi tiếp liền với Vân Nam, Quảng Tây, công văn, giấy tờ đi lại, phi quan văn thì không làm nổi chức Đốc trấn ấy. Lại như Phú Lương, sau đổi ra Phú Bình, Đà Dương sau đổi ra Đoan Hùng, Ma Nghĩa sau đổi ra Minh Nghĩa, Cổ Đằng sau đổi ra Hoằng Hóa, Lương Giang đổi làm Đoan Nguyên (25), Thanh Đàm đổi làm Thanh Cương, Thanh Miệu đổi làm Thanh Miện, Tế Giang đổi làm Văn Giang, Trường Tân đổi làm Gia Phúc, Võ Ninh đổi làm Võ Giang, Thanh Liêm đổi làm Thanh Liệm. Cửa bể Thần Đầu đổi thành Thần Phù, nay đã lấp thành đồng bằng. Cửa bể Đại Ác nay đổi thành Đại An. Cổ Hiền khi xưa là một huyện, nay gồm về huyện bên cạnh. Hải Đông khi xưa là một phủ, nay thuộc cả về Trấn Ti. Đại loại như thế rất nhiều, không thể kể hết. Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được.

_______

 

Chú thích:

(1), (2) Trước là chữ Thanh có chấm thủy, nghĩa là trong. Sau, kỵ húy đổi thành Thanh -màu xanh,  không có chấm thủy.

(3) Tức Trịnh Tráng (1623 – 1657).

(4) Tức Lê Duy Đàm (1573 – 1599).

(5) Giang Khẩu, Hà Khẩu: là khu vực phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm (cũ).

(6) Thái Cực nay là sau phố Hàng Bạc và ngõ Sầm Công. Đồng Hà nay là Hàng Gai, Đông Các nay là Hàng Bạc.

(7) Phạm Quý Thích (1599 – ?) cũng người huyện Đường An, cùng quê với Phạm Đình Hổ.

 (8) Làng Hoa Đường là làng Phạm Quý Thích.

(9) Quán chỉ là quê quán, thân thế, nói chung.

(10) Nguyễn Trực (1417 – 1473) đậu trạng nguyên năm 1442 đời Lê Thái tông. Cụ Phong nói ở đây tức là Nguyễn Thi Trung.

(11) Bản dịch viết là Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự.

(12) Bản dịch viết là Tôn Trần.

(13) Quả chuông của chùa Diên Hỗ, phường Đống Ngạch. Năm Diên Hựu thứ hai đúc xong. Người tín đố làm quan tên là Tống Trân cúng một lạng vàng.

(14) Quả chuông khắc năm Diên Hựu, cây tùng tốt rợp bóng lâu dài.

(15) Đỗ Uông, người huyện Gia Phúc (Vĩnh Phú) đỗ bảng nhãn, làm quan nhà Mạc, nhà Mạc mất, ông đem các văn thần đến cửa quân nhà Lê xin quy thuận.

(16) Triết vương tức Trịnh Tùng (1570 – 1623) người đánh phá nhà Mạc, lấy lại Đông Đô lập ra nghiệp Chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. Miếu hiệu của ông là Thành Tổ Triết vương.

(17) Lê Anh Tông (1557 – 1573) tên húy là Duy Bang.

(18) Lê Kính Tông (1600 – 1619) tên húy là Duy Tân.

(19) Lê Tương Dực (1509 – 1516).

(20) Minh Đức là niên hiệu Mạc Đăng Dung (1527 – 1529).

(21) Lê Quý Đôn (1725 – 1783).

(22) Tức là năm 1491.

(23) Bản gốc viết là do các chinh phu, tức những binh lính đi chinh chiến xa làm ra.

(24) Khang Hy (1662 – 1720).

(25) Bản dịch viết là Thụy Nguyên.

---------

Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiều, còn có biệt hiệu là Hy Kiều Phủ, người đời thường gọi là Cụ Tế Đan Loan. Ông quê ở xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Nhà ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, thuộc thành Thăng Long.

Tác phẩm: Vũ trung tùy bút, Nhật dụng thường đàm, Đông Dã học ngôn thi tập, Bạn tiếp tồn phụng, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án)...

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

Tại sao cụ Phạm Quỳnh không gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông?

 


Bài trước, đã đặt ra và trả lời các câu hỏi Hòn ngọc Viễn đông là gì, mục đích của người Pháp khi gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông, quy mô của nó ra sao và vì sao lại có quy mô đó.

Bài viết dưới đây là phần tiếp theo của bài viết trước.

Và, vẫn muốn "gửi gắm" đến các anh chị thơ văn nửa mùa ở Sài Gòn đang khóc thương cho cái gọi là "Hòn ngọc Viễn đông"- Sài Gòn thời Tây - giờ chỉ còn là tên của một phường.


"Hòn ngọc" của ai?

Dĩ nhiên "Hòn ngọc Viễn Đông", nếu thực sự có, thì nó là của người Pháp, chứ không thể là của người Việt. Xem Wiki là biết:

Học giả Vương Hồng Sển cho rằng: danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" do quan chức thực dân Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó. Và:"Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui..."

Còn nhà báo Henry Kamn (New York Times) nhận xét: Sài Gòn không phải chỉ có sự lãng mạn như cái tên "Hòn ngọc Viễn Đông" mà người Pháp đặt cho nó; đại đa số người Việt Nam và người Hoa sống tại đây phải lao động cực nhọc vượt xa đồng lương rẻ mạt họ được nhận để tạo nên sự lãng mạn của thành phố. Sự phô trương chỉ tập trung vào đời sống của giới thượng lưu: Thực dân Pháp, người ngoại quốc, giới quý tộc Việt Nam.


 Ai có thể gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông?

Như đã nói, cụm từ tiếng Pháp "La Perle de l'Extrême-Orient" dịch chính xác ra tiếng Việt là "Viên ngọc trai miền Viễn Đông", trong đó Viễn Đông có nghĩa là phương Đông xa xôi.

Từ năm 1918, cụ Phạm Quỳnh, trong tác phẩm Một tháng ở Nam Kỳ (in trong cuốn Mười ngày ở Huế, nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2001), đã không dịch một cách "thông thường" như vậy. Cụ viết:

"Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt  báu của Á Đông” (la perle de l’Extrême- Orient)".

Học giả Phạm Quỳnh là người viết báo, dịch sách, diễn thuyết bằng tiếng Pháp, 16 tuổi đã vào làm ở Viện Viễn Đông bác cổ với người Pháp. Cụ lại thông thạo cả chữ Hán.

Thế mà cụ dứt khoát không dịch "la perle de l’Extrême- Orient" thành "Hòn ngọc Viễn đông". Cụ lại dịch là “hạt  báu của Á Đông”.

Tại sao vậy? Vì cụ rất có ý thức là người Việt Nam thì không thể nói như người Tây. Và phải nói thêm, ở điểm này thì cụ Phạm đã cực kỳ tinh tế và chuẩn xác.

Vì đối với đám thực dân hay khách du người Âu, thì Sài Gòn đúng là phương Đông xa xôi thật. Tương quan về vị trí địa lý giữa châu Âu và Sài Gòn thì đúng là như thế. Chúng ở phía Tây lại nên được ta gọi là thằng Tây, khoai tây, hành tây, đồng hồ tây, chó tây và bây giờ vẫn có Tây ba lô.

Còn đối với người Việt Nam, và nhất là các anh chị người Sài Gòn, lại mang danh là người có tý chữ, mà lại tự gọi nơi chôn rau cắt rốn của mình là phương Đông xa xôi, thì... chỉ có thể gọi là... ... 

( ... tự kiểm duyệt)!

 

                                              "Hòn ngọc Viễn Đông" của ai?