Đại Tướng Lê Trọng Tấn
Đại tướng Lê Trọng Tấn sinh sau Đại tướng Võ Nguyên Giáp ba năm, năm nay, nếu ông còn sống thì cũng đã hơn 100 tuổi. Nhân kỷ niệm 50 năm Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước xin nhắc lại một entry Thienly đã viết về ông, cách đây nhiều năm, trên blog này.
Đại tướng Lê Trọng Tấn có một vị trí đặc biệt trong những
trang sử vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là vị tướng được
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặc biệt quý trọng và tin tưởng. Tướng Giáp từng
nói: “Trận nào có anh Tấn đốc chiến thì mình đã yên tâm 50% rồi”.
Thế nhưng, không phải không có những lúc tướng Tấn “cãi”
tướng Giáp.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Tấn là người chỉ huy đại
đoàn 312 đánh trận mở màn vào cứ điểm Him Lam và kết thúc chiến dịch bằng
việc bắt sống tướng de Castries (Đờ Cát).
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cánh quân phía Đông do ông chỉ huy
lại là đơn vị đầu tiên, thần tốc tiến vào Sài Gòn, và kết thúc
chiến dịch với tuyên bố đầu hàng của Tổng thống VNCH Dương Văn Minh.
Khi đại đoàn 312 được thành lập (27-12-1950), ông Tấn mới 36
tuổi, được giao chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy.
Ngày 14-01-1954, cán bộ chỉ huy các đại đoàn được Bộ Tổng Tư
lệnh chiến dịch phổ biến phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Mười hai ngày sau, 26-1-1954, một cuộc họp Đảng ủy bất
thường do tướng Giáp triệu tập tại hang Thẩm Púa. Tướng Giáp, sau một đêm
thức trắng, quyết định chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.
Những vị chỉ huy như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Hoàng Văn Thái... đều im lặng
hoặc băn khoăn trước đề xuất "đánh chắc, tiến chắc" được đưa ra.
Người “cãi” kịch liệt nhất là Lê Trọng Tấn, vì đại đoàn 312 vừa
mới tốn bao công sức và xương máu để đưa pháo vào trận địa, chỉ mới
được vài ngày đã phải “kéo pháo ra”, khí thế đang hăng bây giờ biết
“ăn nói” với bộ đội thế nào? Mặc dù trước đó, chính báo cáo của
ông Tấn với tướng Giáp:“Chúng tôi phải liên tục đột phá ba phòng tuyến
mới tới phía bên trong được” đã phần nào thúc đẩy quyết định
lịch sử thay đổi phương án tác chiến của tướng Giáp.
Tuy “cãi”, nhưng “quân lệnh như sơn”, ông Tấn vẫn chấp
hành, và chính ông là người đề xuất khẩu quyết "vây,
lấn, tấn, phá, triệt, diệt", được bộ đội phổ biến và áp
dụng thành công trong suốt chiến dịch.
Theo ghi chép của cựu nhà báo quân đội Bùi
Tín, “vài chục năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tướng
Giáp và tướng Tấn đã có buổi trò chuyện thân mật với báo giới về cuộc họp tại
hang Thẩm Púa. Theo lời kể vui của Đại tướng, chính người đúc kết khẩu quyết
"vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt" là vị chỉ huy phản ứng mạnh nhất
với quyết định chuyển đổi phương án tấn công của ông tại hang Thẩm Púa ngày
26/1/1954. Tướng Tấn cười, thừa nhận câu chuyện trên và cho biết: khi ấy, ông
quá lo lắng về việc chiến dịch sẽ kéo dài và phải chuẩn bị lại trận địa pháo”.
Ba mươi mốt năm sau, tướng Tấn lại “cãi” tướng Giáp.
Ngày 26-3-1975 tại Tổng hành dinh, Tổng tư lệnh chiến dịch
là tướng Giáp họp với tướng Tấn, người vừa được chỉ định là Tư lệnh mặt trận
Quảng Đà, bàn kế hoạch tiến công Đà Nẵng. So sánh tương quan lực lượng hai
bên, (tại Đà Nẵng, phía VNCH có hơn 100.000 lính và sĩ quan), tướng Tấn
đã chuẩn bị sẵn một phương án đánh chiếm Đà Nẵng trong 7 ngày, sau rút
xuống còn 5 ngày.
Tuy nhiên, Đại tướng Tổng tư lệnh lại nghĩ khác (1), tình hình
có thể diễn biến đột ngột, khả năng địch tháo chạy là rất có cơ sở. Nếu
đánh kéo dài trong 5 ngày để địch co cụm được thì sẽ hỏng việc lớn. Do vậy,
sau khi tham khảo thông tin từ Cục quân báo, tướng Giáp yêu cầu tướng
Tấn chuẩn bị phương án đánh trong 3 ngày.
Trong hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, tướng
Giáp kể lại: “Anh Tấn vẫn giữ ý kiến, và trình bày: Đánh như
vậy không thể chuẩn bị kịp. Tôi nói, giọng có phần gay gắt: “Tư lệnh mặt trận
là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng
theo phương án chuẩn bị 3 ngày. Nếu chuẩn bị 5 ngày, địch rút mất cả thì sao?
Huế đã giải phóng rồi. Mặc dầu pháo binh và hải quân địch có thể bắn phá, cứ
cho bộ đội hành quân theo đường số 1 tiến công thẳng vào Đà Nẵng. Từ phía nam
cũng theo đường số 1 tiến công lên. Không họp đảng uỷ, chỉ trao đổi bằng điện”.
Sau đó, như ta đã biết, tướng Tấn đã chấp hành và hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ. Trong vòng 3 ngày, quân đoàn 2 của tướng Tấn thổi bay
hơn 100.000 quân địch, giải phóng Đà Nẵng (2).
Sau này, khi hoàn thành chiến dịch, lúc gặp
lại tướng Tấn, tướng Giáp nói vui: “Lẽ ra mình cho cậu 5 điểm (3), nhưng
vì chuyện “3 ngày” nên chỉ cho 3 điểm thôi”.
Cần nói thêm, ý tưởng ban đầu là sau khi giải
phóng Buôn Mê Thuột, quân ta sẽ khẩn trương tiến dọc Tây Nguyên, tấn công Sài
Gòn rồi sau đó mới trở ra “giải quyết” các tỉnh đồng bằng Duyên hải. Nhưng,
quyết định mở mặt trận giải phóng Huế – Đà Nẵng của tướng Giáp là một thay
đổi cực kì quan trọng.
Sau khi chỉ huy giải phóng Đà Nẵng, tướng Tấn được cử làm Tư
lệnh cánh quân phía Đông gồm Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Sài
Gòn. Cánh quân này đã thần tốc theo đường ven biển tiến về phía Nam, nhanh chóng
phối hợp với các cánh quân khác của quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Trong trận cuối cùng đánh vào Sài Gòn, một lần nữa, tướng
Tấn lại “cãi”, nhưng lần "cãi" này thì ông hoàn toàn thuyết
phục được tướng Giáp.
Hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của
tướng Giáp cho biết: “Theo kế hoạch, 5h30 sáng 30/4/1975, các
hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía đông,
anh Lê Trọng Tấn đề nghị nổ súng từ 18 giờ ngày 29/4. Lý do là các lực lượng ta
còn cách vùng ven từ 15 đến 20km, phải vừa đánh địch vừa tiến quân, lại phải
vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nếu cùng nổ súng sẽ không đến kịp”.
Tại Hội thảoTổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975,
tướng Giáp xác nhận: “Cánh quân phía Đông là sáng tạo của Bộ Tổng Tham
mưu vì nó không có từ đầu trong kế hoạch giải phóng miền Nam”(4).
Kết quả là mặc dù cánh quân của tướng Tấn ở cách xa nội đô
hơn các mũi khác, nhưng họ lại là những chiến sĩ đầu tiên tiến vào
Dinh Độc Lập, bắt sống nội các cuối cùng của chính quyền VNCH.
Chiến công của sư 312 trong chiến dịch Điện Biên phủ và
cánh quân phía Đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đều in đậm dấu
ấn chỉ huy của vị tướng “hay cãi”, Đại tướng Lê Trọng Tấn.
--------------
(1) Hai ngày trước đó, trong cuộc
họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương (ngày 24/3), tướng Giáp phân
tích: “Nếu chúng thoát được vào phía nam thì cuộc Tổng tiến công của ta ở
chiến trường trọng điểm sẽ gặp khó khăn. Vậy ta cần nhanh chóng đánh chiếm Đà
Nẵng, tiêu diệt sinh lực của địch ở đây, tạo thuận lợi phát triển tiến công
trong các bước sau. Chúng có thể "tử thủ", cũng có thể rút, rút nhanh
hay rút chậm, nhưng ta thì phải chuẩn bị đánh trong tình huống địch rút nhanh,
nhất thiết phải đánh nhanh. Không chờ giải phóng xong Huế, mà ngay từ bây giờ,
phải bắt đầu mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Nhanh chóng đánh chiếm các điểm
cao, cho xe tăng thọc sâu ngay, tận dụng tối đa khả năng của pháo binh để tiến
công Đà Nẵng”.
(2)Theo tướng Cao Văn Viên, đại tướng, Tổng
tư lệnh Quân đội VNCH (The final collapse), Quân đoàn I của phía
VNCH đồn trú tại Đà Nẵng lúc ấy sở hữu một khối lượng binh lực, vũ khí,
phương tiện chiến tranh và dự trữ hậu cần rất lớn gồm 134.000 sĩ quan và binh
sĩ, trong đó có 84.000 quân chủ lực và 50.000 quân địa phương; 449 xe tăng, xe
bọc thép; 418 khẩu pháo lớn có cỡ nòng từ 105mm đến 175mm; 27 xe bọc thép M-42
gắn cao xạ 40 mm 2 nòng; 37 xe cùng loại gắn súng máy 6 nòng loại Vulcan;
373 máy bay, trong đó có 96 máy bay chiến đấu; 165 tàu, xuồng các loại.
(3) Thang điểm hệ đại học bấy giờ, mức tối đa là 5
điểm.
(4) Bài viết: “Mãi mãi nhớ anh Tấn” của Trung
tướng Lê Hữu Đức đăng trên Tạp chí Xưa và Nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét