Thứ Hai, 25 tháng 1, 2016

Văn tế rùa Hồ Gươm







-----------
Hỡi ôi!

Sóng nước lao xao,
Lộc vừng bối rối,
Đền Ngọc Sơn gió bấc đìu hiu,
Cầu Thê Húc thoảng mùi thôi thối,
Tưởng đâu từ nơi đống rác, quân vô lương đổ trộm xuống hồ?
Thì ra là xác ông Rùa, chết đột quỵ nhẽ chưa kịp trối!

Thứ Hai, 18 tháng 1, 2016

Cái ơn con ... tự (5, hết)




(Vài chuyện về chữ quốc ngữ)
  ------------
“Công lênh” người Pháp trong việc “quảng bá” chữ “quốc ngữ”

Như vậy có thể thấy chữ “quốc ngữ” ra đời muộn nhất phải là khi giáo sĩ người Bồ Đào Nha Francisco de Pina “bắt tay vào Ngữ pháp” (tiếng Annam)  như ông kể trong bức thư viết dở đầu năm 1623. Trong suốt hơn 200 năm tiếp theo, chữ “quốc ngữ” chỉ được sử dụng theo đúng mục đích ban đầu mà các giáo sĩ phương Tây đề ra, là dùng nó như một phương tiện để truyền giáo cho người Việt mà thôi, tức là trong một phạm vi rất hẹp giữa các giáo sĩ và giáo dân, và không phải cứ là giáo dân thì ai cũng được học và muốn học.
Chẳng hạn, mục đích này được khẳng định trong cuốn từ điển Việt-La (Dictionarium Anamitico-Latinum) xuất bản năm 1838, viết bởi giám mục người Pháp Pierre Pigneaux (được biết nhiều hơn với cái tên Bá Đa Lộc, kẻ đã thay mặt Nguyễn Ánh chơi canh bạc Hiệp ước Versailles 1787 với nước Pháp, gán đảo Côn Lôn và cảng Đà Nẵng để đổi lấy 1.650 lính sơn đá và 4 chiến hạm) – phần lời người xuất bản có đoạn: "Muốn kéo vào đạo Ki Tô những nhà nho hay những quan chức có thế quyền trong xã hội Đàng Trong, thì phải nhử họ và chinh phục họ ở lĩnh vực mà họ giỏi. Tôn giáo phải được trình bày với họ trong một ngôn ngữ và phong cách toàn hảo. Cuốn sách được làm ra như là một công cụ cần thiết cho những nhà truyền giáo Âu Châu, cho các thầy giảng giáo lí Việt Nam, và nhắm vào việc in ấn sách tôn giáo có chất lượng. Cuốn sách không phải là một thứ tiêu khiển trí thức mà là một công cụ truyền đạo trong giới Hán-Việt"

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Cái ơn con ... tự (4)






(Vài chuyện về chữ quốc ngữ)
------------

Tại sao người Pháp nhận vơ “công tích” cụ cố Rốt?

Như đã nói ở kỳ trước, từ thời thực dân đô hộ đến nay, các học giả Tây, ta đều thừa biết chữ “quốc ngữ” hình thành là do công tập thể của nhiều người, trong đó có "người Bồ Đào Nha và người Annam". Nhưng tại sao người Pháp lại dựng bia ghi công mỗi cụ cố Rốt mà không đả động đến những người khác? Nguyên do chỗ này vốn có một chút nhập nhằng khôn khéo của người Pháp. 
Đầu tiên là bởi trong số những người “có công”, chỉ có cụ cố Rốt là người sinh ra ở xứ Avignon, là xứ nói tiếng Pháp, tiếng “mẫu quốc” nên dễ “lập lờ đánh lận con đen” hơn cả. Lý do thứ hai là vì cụ chính là "ân nhân" của người Pháp khi lập ra Hội thừa sai Paris (M.E.P, mà mãi đến năm 1950 vẫn đóng đinh trên khắp các giáo xứ ở Việt Nam) và nhờ đó đưa lối dẫn đường cho người Pháp thực dân đặt chân vào Đông Dương sau này. Lý do thứ ba có vẻ hữu lý hơn cả là về mặt chứng tích văn bản, chỉ có 3 tài liệu của cụ Rốt, mà nổi tiếng nhất là cuốn Từ điển Việt- Bồ-La (dẫu rằng do cụ “đạo” từ một phần “công khó” của các cụ cố khác người Bồ) được Thánh bộ Truyền giáo đức tin La Mã cho in vào năm 1651. Và thế là quá đủ cho họ vơ nhằng, rằng cụ cố Rốt là người Pháp, có thế thì mới tôn được cái công lao “khai hóa”, truyền bá “văn minh” của họ đối với người Việt và xóa mờ ấn tượng về nền cai trị thực dân tàn độc của họ.

Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016

Cái ơn con... tự (3 – tiếp theo)






(Vài chuyện về chữ quốc ngữ)
------------

Tiếp tục kể lể về “công tích” cụ cố Rốt

Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều các học giả và nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu về vấn đề “ai là ông tổ chữ quốc ngữ?” trong đó dĩ nhiên có phần "công tích" của cụ cố Rốt, và hầu hết đều có chung câu trả lời thỏa đáng. Điểm qua, đó là các chuyên luận hoặc bài viết của các ông: Linh mục Đỗ Công Chính, Võ Long Tê, GS Trần Chung Ngọc, học giả An Chi, GS Nguyễn Mạnh Quang, GS Phạm Văn Hường, các tác giả Bùi Kha, Charlie Nguyễn, BS. Nguyễn Văn Thịnh, Huỳnh Ái Tông ... mà bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng, nhất là qua trang Sachhiem.net.

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

Cái ơn con... tự (3)






(Vài chuyện về chữ quốc ngữ)
------------

“Công tích” cụ cố Rốt

Như đã nói ở kỳ trước, “công đầu” của cụ cố Rốt là truyền cái đạo Ki tô vào nước ta chứ không phải là làm ra cái chữ quốc ngữ để rồi sau này các ông Đông Kinh nghĩa thục dùng nó để chống Tây. Kẻ hưởng lợi đầu tiên là siêu đế quốc Vatican và thứ đến là nước Pháp thực dân, như học giả người Pháp là Georges Taboulet xác nhận: “Cha Alexandre de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam” (Trong La geste française en Indochine: Histoire par les textes de la présence de la France en Indochine des orgines à 1914).
Tuy vậy, ban đầu khi cụ cố Rốt lò dò đến xứ Đại Nam thì nước Pháp cũng chưa được nhờ hồng ân của cụ. Là vì Giáo hoàng Alexandre VI, vào tháng 5-1493 đã ban một sắc lệnh chia thế giới “các vùng đất mới” (tức là những châu lục ngoài châu Âu) làm hai, một nửa thuộc Tây Ban Nha và phần còn lại thuộc Bồ Đào Nha (trong mắt “vua của các vua”, tức Giáo hoàng, thì nước Pháp khi đó chưa là cái đinh rỉ gì). Hai đế quốc này có “toàn quyền xâm lăng, chinh phục, chiến đấu và khuất phục tất cả dân ngoại và kẻ thù của giáo hội…được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, các lãnh địa, vương hầu, đô hộ đất và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng làm nô lệ vĩnh viễn” (Linh mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm Nxb Trẻ 1988). Lý luận “hùng hồn” của giáo hội bấy giờ là: “Thế giới là do Chúa tạo ra, vì vậy bất kỳ vùng đất nào cũng phải thuộc về dân Chúa”!
Bởi vậy, các giáo sĩ luôn luôn là người tiên phong, đồng hành cùng các tàu buôn và tàu chiến đến từ phương Tây. Không ngoại lệ, năm 1927, cụ cố Rốt đặt chân lên Đàng Ngoài (Tonkin – Đông Kinh) với danh nghĩa một thầy tu Dòng Tên và là thần dân nước Bồ Đào Nha (chứ không phải Pháp).
Truyền đạo được vài chục năm, năm 1650, cụ Rốt về Rome (La Mã) “báo cáo thành tích” khống, rằng đã “cải đạo” được cho 300.000 người bản xứ (khoảng hai mươi năm sau, con số này được các đồng nghiệp của cụ báo “tụt” xuống còn ...60.000 người) và đề xuất Giáo hội cử thêm cho 300 “linh mục” để giúp việc Chúa tại phương Đông. Đế quốc Bồ Đào Nha của cụ bấy giờ đã suy yếu và không đủ nhân sự để đáp ứng yêu cầu này, còn Tòa thánh nghe cụ nổ văng miểng đâm ra nghi ngờ và thậm chí đã đòi hỏi một cuộc điều tra. (theo Philipe Devillers - Người Pháp và người Annam – Bạn hay thù?).
Chán đời, cụ cố Rốt giận lẫy với Tòa Thánh, nghỉ chơi với Bồ (Đào) và quay sang ve vãn nước Pháp. Tháng 1 năm 1653, cố Rốt đến Paris để nhờ nước Pháp “cung cấp cho nhiều chiến sĩ”. Sự kiện này được cụ Rốt ghi lại trong  cuốn sách Các cuộc hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions) như sau:
“Tôi nghĩ  nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ (nguyên văn: plusieurs soldats - binh lính) đi chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về quy phục chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thày chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi hôn chân Đức Giáo hoàng.”  
Mấy chữ plusieurs soldats cũng có người đòi hiểu thành “nhiều linh mục” thay vì bám sát nghĩa đen là “nhiều binh lính”. Có thể lắm chứ, nếu xét theo ngữ cảnh toàn đoạn văn. Có điều xưa và nay người Việt vẫn còn dùng mấy chữ “lính Sơn đá” để chỉ lính Tây và làm sao xóa được gốc tích hai chữ “sơn đá” tiếng Việt chính là phiên âm từ “soldat” tiếng Tây mà ra. Vả lại, lịch sử Giáo hội La Mã từng chứng kiến biết bao nhiêu sự kiện, trong đó thay vì mang theo Thánh giá và lòng bác ái của Thiên Chúa đi rao giảng Tin Mừng thì các cố toàn vác dàn thiêu, súng, gươm, thuốc độc... đi khắp thế gian để "chinh phục" những dân “vô thần”, “ngoại đạo” và nào ai đã dám loại trừ chuyện các cố “rao giảng” lẫn nhau cũng bằng những thứ đó. Nên nếu có chuyện các cố đang từ ông “linh mục” mà đùng một cái bỗng biến thành “lính tráng” thì cũng là chuyện quá đỗi bình thường.
Từ đó, cùng với nước Pháp, cụ cố Rốt lập ra Hội Thừa sai Paris (M.E.P: Missions étrangères de Paris) để sau này Pháp có cớ đặt chân vào xứ Đại Nam và “hậu duệ” của cụ, tức là các cha thuộc Hội Thừa sai Paris, đến ba thế kỷ sau vẫn còn cai trị các giáo phận tại Việt Nam, mãi đến năm 1950 mới chuyển giao cho các đồng nghiệp người Việt. Chính Bonifacy, một sử gia người Pháp, trong cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930, đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhodes trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương”.
Cho nên không có cụ Rốt đưa lối dẫn đường thuở ban sơ, thì nước Đại Pháp còn lâu (thậm chí là chẳng bao giờ) mới được đến xứ Annam để khai thác thuộc địa, đó là cái “công” thứ hai của cụ và vì thế, người Pháp thực dân tri ân cụ Rốt là đương nhiên. Nhưng người Việt và cả những người Pháp lương thiện thì không có lý do gì để “tri cái ân” thứ hai này được, chẳng những thế, trong cuốn Người Pháp và người Annam – Bạn hay thù, tác giả Philipe Devillrs, nhà sử học người Pháp còn gọi đích danh đó là “sự tiêm nhiễm con vi trùng Thiên chúa giáo”.
Bây giờ đến cái "công" thứ ba: Cha đẻ chữ quốc ngữ, nếu đúng thì cũng chẳng tiếc gì mà không tạc bia đá tượng đồng cụ cố. Nhưng thật vậy không? Chuyện này đã tốn khá nhiều giấy mực và cả các cuộc hội thảo.
Thực ra, ngay từ thời Pháp thuộc, các học giả người Tây và cả người ta, đều thừa biết chữ “quốc ngữ” hình thành là do công tập thể của nhiều cụ cố người Bồ Đào Nha, và cả người Annam, chứ cụ cố Rốt có nằm mơ cũng không nghĩ ra có ngày mình được “độc quyền” vinh danh “công tích” phát minh ra chữ Việt.
Bởi ngay lúc còn sống, chính cụ Rốt cũng thú nhận rằng mình đã sử dụng “công khó” của hai cụ cố khác, hai cụ này đã làm sẵn hai cuốn từ điển Việt – Bồ và Bồ – Việt, để cụ Rốt thêm phần La Tinh vào nữa là thành ra cuốn từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) lừng danh mang tên riêng cụ. Đây là “lời khai” của cụ, in tại lời tựa trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La:
"Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Tên rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam (tức là từ điển Việt-Bồ), ông sau bằng tiếng Bồ-Đào (tức là từ điển Bồ-Việt), nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La Tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn...".
Nhà văn, nhà báo Đào Trinh Nhất (1900-1951)

Và từ những năm 1932, ngay trong khi chính quyền thực dân vẫn đang khăng khăng "nổ" rằng "Cố đạo người Pháp, cha Đắc Lộ là ông tổ của chữ quốc ngữ" thì nhà báo Đào Trinh Nhất (*), trên báo Phụ Nữ Tân Văn, số 118 ra ngày 4-2-1932 đã viết huỵch tẹt:
“Tuy trong các sách đạo đời trước để lại, hình như không có cuốn nào nói rỏ gốc-tích chữ quốc-ngữ từ đâu mà ra, hay là có sách ấy mà riêng tôi chưa được thấy không chừng, nhưng có một đều chắc rằng ông A. de Rhodes không phải là người đặt ra chữ quốc-ngữ. Có lẽ lúc ông qua giãng đạo ở nước ta, thì chữ quổc-ngữ đã có rồi, nhưng còn lôi-thôi, cho nên ông ra tay sửa sang lại và lợi-dụng nó làm thứ chữ in kinh giảng đạo cho tiện. Bởi vậy, trong ít nhiều cuốn sách tôi đọc, thẫy mỗi khi nhắc tới ông A. de Rhodes, thì đều nói rằng ông có công sửa lại chữ quốc-ngữ, đề truyền dịch tiếng Annam ra, lại làm một cuốn tự điển và một cuốn mẹo tiếng Annam, để lại về sau cho các cố đạo qua truyền-giáo ở đây học tiếng bổn-xứ. Thứ nhứt là ông có soạn ra một cuổn sách giảng (catéchisme), một bên chữ Latinh, một bên chữ quốc-ngữ ; khi bị đuổi ở nước Nam về, ông in sách ấy ở kinh-thành La-mã, rồi truyền sang ta, làm cuốn sách rất hữu ích và rất cần dùng cho các thầy giảng đạo. Tẩm hình in theo bài này chính là một trương sách đó vậy. Xem như trên đây, thì thật ông A. đe Rhodes không phải là người đặt ra chữ quốc-ngữ đã chắc rồi. Vậy thì ai đặt ? Cái đó hình như không sách nào nói, cũng không ai biết. Trên kia tôi đã nhắc lại rằng có ít nhiều bạn quen, rành việc đạo đời xưa ở nườc ta lắm, nói với tôi rằng : Chữ quốc-ngữ có lẽ do mấy thày giảng người mình ở miệt Nghệ-an, Hà-tĩnh đặt ra, mà có các ông cố đạo Langsa, Y-pha-nho, cùng là ngườỉ Bồ-đào-nha giúp sức vào nữa. Mấy thầy giảng ngưòi mình đó tên gì? Là ai? Thi không ai biết được. Có đều nói rằng người Bồ-đào-nha (Portugal) giúp sức vào thì có lý lắm. Là vì người ta thấy chữ đ ở quốc-ngữ ta với chữ đ của chữ Bồ-đào-nha giống nhau, nghĩa là cũng có cái gạch ngang trên đầu, chỗ ấy là chỗ có quan-hệ mật-thiết với nhau, khiến cho người ta có thể tưởng rằng hay là một ông cố đạo người Bồ-đào-nha đã đặt ra hoặc giúp sức vảo việc đặt ra quổc-ngữ vậy.
Ai là tổ chữ quốc-ngữ ? Cái dấu hỏi ấy ta hãy để dành cho các nhà sử-học và các nhà khảo- cổ, có lẻ một ngày kia họ trả lời cho ta được”.
Thực ra nhà báo Đào Trinh Nhất đặt ra câu hỏi nhưng chính ông đã phần nào trả lời câu hỏi đó. Rằng đó có thể là một ông cố đạo người Bồ Đào Nha và cả những người Việt nào đó nhưng dứt khoát không phải là ông cố RốtThêm nữa, tác giả bài báo còn vạch ra rằng ông cố Rốt vốn là người xứ Y Pha Nho (Tây Ban Nha), chứ có phải là người Pháp đâu mà người Pháp “kể công”. (Chi tiết này sẽ được nói kỹ hơn ở phần sau).
Cho đến gần đây, thì cái dấu hỏi của nhà báo Đào Trinh Nhất năm xưa lại được một ông Linh mục người Pháp tiếp tục trả lời một cách cặn kẽ...


(còn tiếp)
-----------------------------
(*) Đôi nét về Nhà văn, nhà báo Đào Trinh Nhất
Đào Trinh Nhất (1900-1951) từng là chủ bút hoặc bỉnh bút của nhiều tờ báo như Hữu Thanh tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Trung Hoà nhật báo, Đông Pháp , Phụ nữ tân văn, Thần trung, Công luận, Đuốc nhà Nam, Mai, Trung Bắc tân văn, Trung Bắc chủ nhật, Sài Gòn mới, Ánh sáng, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Việt thanh, Cải tạo. Thời gian du học ở Pháp (1926-1928), ông còn viết trên báo Việt Nam hồn.
Ngoài các khảo cứu về vần đề Duy tân, ông Đào Trinh Nhất còn là tác giả của một số cuốn sách viết về cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và các phong trào yêu nước, các anh hùng chống Pháp như Phan Đình Phùng -Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1884 - 1895) ở Nghệ Tĩnh (NXB Cao Xuân Hữu - 1937), Đời cách mệnh Phan Bội Châu (dịch Ngục trung thư, NXB Mai Lĩnh - 1938), Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 (NXB Quốc dân thư xã - 1946).
Ông là con trai trưởng của cụ Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập và đặt tên trường Đông Kinh nghĩa thục. Cụ Phổ lại là người làm báo đầu tiên của miền Bắc từ 1905 (Đại Nam đồng văn nhật báo và Đại Việt tân báo). Phong trào Đông Kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng (3/1907-12/1907) thì bị người Pháp giải tán. Năm sau, nhân xảy ra vụ Hà thành đầu độc, cụ Đào Nguyên Phổ bị Pháp lùng bắt ráo riết và cụ đã buộc phải quyên sinh, khi đó ông Nhất mới 8 tuổi. 
Thời ông Nhất làm chủ bút, Báo Phụ nữ Tân Văn từng bị cấm phát hành tại Bắc Kỳ (10-1931 đến 8-1933) và đình bản nhiều lần. Tác phẩm Đông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội -1937) của  ông Đào Trinh Nhất đã bị nhà cầm quyền Pháp bấy giờ cấm lưu hành. Bản thân ông Nhất cũng bị chính quyền thực dân trục xuất về Bắc năm 1939.
Thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác có câu đối viếng:
Đàn Tân văn nổi tiếng tài danh, ra Bắc vào Nam, giọt máu còn nơi dòng Nghĩa thục.
Làng hãn mặc nhiều duyên tri kỷ, vàng rơi ngọc xót, nửa đời giờ tỉnh giấc Liêu trai.


Ngày nay tên ông được cho một số con đường ở Tp. HCM và Bình Dương.