Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Xuân Diệu về trường


Hồi học đại học, mỗi lần nhận được tin "tối nay có phim" là sinh viên vui muốn phát rồ. Chiều ấy, học cũng nghỉ sớm, đá bóng cũng nghỉ sớm, ăn cơm chiều sớm hơn mọi bữa rồi về chuẩn bị chổi cùn rế rách mang lên (cái gọi là) sân khấu nổi để xí chỗ trước. Thực ra sân khấu nổi chỉ là một cái sân khấu ngoài trời bình thường, còn phần nổi lại là cái khán đài, nguyên thủy là sườn đồi, được lót những hàng đan bê tông làm ghế.

Lần này còn vui hơn nữa, còn đáng phát rồ hơn nữa, là có tin đồn tối nay sẽ được nghe nhà thơ Xuân Diệu về nói chuyện. Với chúng tôi, gọi đó là ngày hội non sông cũng chẳng ngoa.

Tầm 4 giờ chiều, thì đã thực mục sở thị ông hoàng thơ tình đi dạo cùng thầy Việt dạy khoa Kiến trúc, nghe lỏm thấy thầy Việt gọi Xuân Diệu bằng "Thầy", chẳng rõ thế nào, chỉ thấy cử chỉ và lời nói của thầy Việt tỏ ra cực kỳ cung kính. Nhà thơ Xuân Diệu dáng bệ vệ, trắng trẻo, mái tóc bồng bềnh như được trời uốn sẵn, vung tay chém gió "ngước bên đông rồi lại ngước bên Tây" khi nói chuyện với thầy Việt.

Chập tối, cả ngàn sinh viên đã ngồi chờ kín khán đài, tầm 7h30 tối thì buổi nói chuyện thơ của nhà thơ Xuân Diệu bắt đầu.

Điều bất ngờ đối với chúng tôi là đi theo Xuân Diệu còn có cả nhà thơ Phạm Tiến Duật, nghệ sĩ guitare Văn Vượng và nữ nghệ sĩ ngâm thơ Trần Thị Tuyết.

Ban tổ chức bố trí một chiếc bục nói chuyện, lại trang trọng đặt lên một lọ hoa tươi. Tấm phông trắng phía sau làm nền dự dịnh sẽ hắt bóng nhà thơ với mái tóc bồng bềnh làm gia tăng sự hứng khởi của diễn giả và cảm xúc của người nghe.

Và hỡi ôi, trên cái bục nói chuyện của diễn giả lại còn có cả một chiếc loa pin cầm tay, kê trên mấy cục gạch. Có lẽ khoa Kiến trúc muốn quảng bá cho phong cách tối giản chăng?

Buổi nói chuyện bắt đầu, và nhà thơ Xuân Diệu trang trọng bước tới cái bục trong tiếng vỗ tay vang dội của khán giả. Việc đầu tiên ông làm là thử loa. Ông gõ gõ mấy ngón tay vào thành loa, lại gõ gõ mấy ngón tay vào cuối loa. Rồi ông làm một việc thật quái dị là nắm lấy cái tay cầm, nhấc hẳn cái loa pin lên, quay ngược lại, chĩa đít loa (chỗ có micro) vào khán giả và alố, alồ vào miệng loa. Cả ngàn sinh viên cười rộ và lại thêm một tràng vỗ tay vang dội.

Nhưng Xuân Diệu không cười, ai cũng biết là ông đang giận và có lẽ cả tủi nữa.

Buổi nói chuyện qua đi, giờ mình chả nhớ Xuân Diệu nói cụ thể những gì, có lẽ là ông đã bình Truyện Kiều của Nguyễn Du nhiều hơn là nói về thơ tình của chính mình.

Dĩ nhiên với một chiếc loa pin cầm tay, vốn chỉ dùng để cầm chịch khi mít tinh hô khẩu hiệu, lại nói giữa sân khấu ngoài trời, trước hàng ngàn khán giả, thì nhiều bạn cũng như mình, đi xem là chính chứ có nghe được gì đâu mà nhớ.

Chỉ láng máng sau khi ông bình đoạn Nguyễn Du miêu tả tiếng đàn của Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như nước suối mới sa nửa vời/ Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”, thì nghệ sĩ Văn Vượng minh họa lại câu thơ bằng tiếng đàn guitare Hawaii, với cách nhấn vuốt, nghe rờn rợn, giống như tiếng người.

Lại cũng chả nhớ chị Trần Thị Tuyết ngâm và anh Phạm Tiến Duật đọc bài thơ nào. Nhưng có một chi tiết thú vị, là anh Duật bảo, có một người bạn đố anh đưa được chữ "nằm ngửa" vào trong thơ. Câu thơ hay: "Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ núi, nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo..." ra đời như thế.

Bài này, viết để nhớ sự kiện Xuân Diệu về trường, nhưng lại thật vô duyên khi chẳng nhớ nhà thơ đã nói gì. Thôi thì xin "đền" mọi người bằng một bài thơ rất hay của cụ Trần Lê Văn, viết sau khi cùng đi với Xuân Diệu lên thăm chùa Thầy. Cụ Trần Lê Văn khi ấy có lẽ đã rời Nhà xuất bản Văn học, chuyển về Sở Văn hóa Hà Tây trông coi di tích, thắng cảnh vì cụ thông thạo chữ Hán.

Hình ảnh Xuân Diệu hiện lên qua bài thơ thật đáng yêu, quả giống như những gì mình đã thấy khi nhìn trộm Người Thơ có mái tóc bồng bềnh đi dạo cùng thầy Việt hói trên con đường đồi bạch đàn hoa nắng.

 

LÊN NÚI THẦY VỚI XUÂN DIỆU

Xuân Diệu cùng tôi lên chùa Thầy

Chuyện ấy tôi còn nhớ tới nay

Nhà thơ gặp núi, gặp hồ nước

Cứ gì nâng chén mới là say

Nhà sư cao hứng gặp nhà thơ

Tửu sắc từ lâu dẫu đã chừa

Bỗng quên chữ "giới" của nhà Phật

Dốc bầu, cạn chén cùng say sưa

Xuân Diệu phải đâu là Tản Đà

Rượu không vào, cũng có thơ ra

Thế mà cạn chén lại cạn chén

Say cả Tam thế cùng Thích Ca

Chưa tàn cuộc rượu, đòi lên núi

Anh bước ra ngoài như múa may

Chân nghiêng bên trái, nghiêng bên phải

Tay giương lấy đà như sắp bay

Còn tôi, dẫu trót dăm ba chén

Đầu gối xem ra vẫn chửa chùn

Sung sướng được ngày nâng đỡ bạn

Gập ghềnh rêu đá vẫn không run

Xuân Diệu ngồi trên đỉnh núi Thầy

Bên anh, tôi mở đôi bàn tay

Như toan giữ lấy người thơ lại

Kẻo sợ vù tan vào khói mây

 

 

------------------


Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Tuyển Thơ Phạm Tiến Duật (2007) và "vụ án viên đạn lạc"

 

Là đang nói tới Tuyển tập thơ Phạm Tiến Duật do nhà xuất bản Hội Nhà Văn phát hành (đợt đầu) ngày 17/11/2007. Khi đó nhà thơ đang lâm trọng bệnh, khoảng nửa tháng sau, đêm 4/12/2007, ông qua đời vì căn bệnh ung thư phổi.

Tuyển tập này được Trung tâm Văn hóa Doanh nhân trao Giải thưởng văn học năm 2007.

Tuy nhiên, tuyển tập này bị dính một "viên đạn lạc", tức là có một bài thơ lạ, là bài thơ Lính mà em. Gọi đó là bài thơ lạ vì khi đọc nó, người ta dễ dàng nhận ra ngay, đó không phải là giọng thơ hùng tráng và sâu thẳm từ nhà thơ Phạm Tiến Duật, người được mệnh danh là "cánh chim lửa của Bộ đội Trường Sơn".

Tác giả thực sự của bài thơ Lính mà em là nữ nhà thơ Lý Thụy Ý (Nguyễn Thị Phước Lý), viết từ năm 1967, đã in trên Văn nghệ tiền phong của Sài gòn. Việc in bài thơ này vào Tuyển thơ Phạm Tiến Duật, với những người không tìm hiểu kỹ, có thể dẫn đến hiểu nhầm tai hại là ông Phạm Tiến Duật "đạo" thơ của Lý Thụy Ý, trong khi gia tài thơ của Phạm Tiến Duật vốn đã rất đồ sộ và tài hoa.  

Thực ra trước khi bài thơ Lính mà em được đưa vào Tuyển tập trên thì trên giường bệnh, ông Duật cũng đã kịp đính chính với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, khi ông Thiều đến bệnh viện thăm mình.

Trong một bài viết trên báo Tuổi trẻ, ngày 4/11/2007, ông Thiều cho hay:

"Khoảng nửa tháng trước đây, bạn bè nhà thơ ở Công ty Dầu khí Việt Xô đã in một tập thơ nhỏ cho ông. Họ là những bạn đọc mến mộ thơ ông từ thời chiến tranh.
Khi tôi đến, ông lấy tập thơ tặng tôi và mở tập thơ ra chỉ cho tôi xem một bài thơ và nói đó không phải là bài thơ của ông. Nhưng vì yêu quí mà những người làm sách đã đưa bài thơ đó vào. Đó là bài Lính mà em. Phạm Tiến Duật nói đây là bài thơ của một nhà thơ nào đó của Sài Gòn viết trước 1975. Nhưng ông rất hạnh phúc với tập thơ mà bạn bè hâm mộ thơ đã in cho mình".

Tác giả thực của bài thơ, bà Lý Thụy Ý, khi đó cũng có biết chuyện này và hoàn toàn cảm thông. Trong một email gửi nhà thơ Trần Mạnh Hảo ngày 22/12/2012, bà nói: "Bài thơ có lẽ được chép qua những người không “thuộc” cho lắm nên lôm côm và mất ý, tôi tin nếu Phạm Tiến Duật làm, chắc chắn sẽ hay hơn nhiều"!

Như vậy, những người bạn của ông Duật ở bên Dầu khí cũng đã nhầm tác giả bài thơ trước khi nó được đưa vào Tuyển tập 2007.

Giờ ta sẽ tìm hiểu tại sao lại có "Vụ án viên đạn lạc" này.

Trước hết, phải nói là Tuyển tập này ra đời trong hoàn cảnh hết sức vội vã. Khi ấy, ông Duật đã nằm trên giường bệnh chờ chêt, mà các bạn văn, đồng đội và những người yêu mến ông, (nhất là Bộ đội Trường Sơn) lại chưa thấy ông có một tuyển tập ghi nhận những đóng góp tiêu biểu của mình. Ai cũng mong sách sớm được phát hành, thể hiện sự tri ân của đồng đội, đồng nghiệp và bạn đọc với nhà thơ. Ai cũng ước ông được tận mắt nhìn thấy đứa con tinh thần của mình.

Thông thường khi làm một tuyển tập, tác giả sẽ tự chọn những tác phẩm tiêu biểu nhất để đưa vào sách, sau đó có khi còn phải "mặc cả" với biên tập viên của NXB, để thống nhất thêm bài này, bớt bài kia...

Còn ở đây, nhà thơ ung thư giai đoạn cuối, nằm viện 108, dây dợ lòng thòng, lúc mê, lúc tỉnh nên nhà văn Nguyễn Khắc Phục vì thương bạn mà làm việc tuyển chọn, lại trong một bối cảnh hết sức đáng thông cảm, có thể nói là phải "chạy đua với cái chết".

Lỗi là có, trước tiên là của người tuyển chọn: nhà văn Nguyễn Khắc Phục, người bạn tâm giao của nhà thơ. Sau đó đến biên tập viên của NXB Hội Nhà Văn. May là không có kiện cáo, nếu có thì ông Hữu Thỉnh cũng phải chịu trách nhiệm.

Nhưng không chỉ nhà văn Nguyễn Khắc Phục nhầm. Một vài người khác (trong đó có bạn cùng học phổ thông với người viết bài này), cũng kể thời sinh viên (1975-1982) có đọc và chép bài thơ Lính mà em, cũng ghi tác giả là Phạm Tiến Duật.

Vậy họ chép bài thơ Lính mà em từ đâu, trong khi các tập thơ mỏng được xuất bản chính thức của PhạmTiến Duật trong khoảng thời gian ấy (75-82) không hề có bài đó?

Thời điểm bấy giờ, các bài thơ hay hầu hết là được người ta chép lại từ sổ tay của bạn bè hoặc một ông anh, bà chị nào đó. Anh, chị kia lại chép tay từ một anh, một chú bộ đội nào khác. Sổ tay chép thơ của các anh bộ đội thời chống Mỹ thì phong phú và tài hoa lắm, có khi còn có tranh tự vẽ để minh họa. Nhiều anh đang là sinh viên thì đi bộ đội.  Anh Duật là sinh viên đã tốt nghiệp khoa Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội. Anh Phục đã in văn và anh Duật đã in thơ trước khi vào bộ đội.

Các anh bộ đội sinh viên thì lãng mạn và "khôn" lắm, các anh ấy thấy hay thì cứ chép, nhất là thơ tình, của ai không cần biết. Xong, cứ đề tác giả là Phạm Tiến Duật hoặc một nhà thơ cách mạng nào đó.

Sao lại thế? Và để làm gì?

Là để tránh sự "kiểm duyệt" của các đồng chí Chính trị viên mà thôi. Các chính trị viên làm gì đủ thời gian mà đọc hết được nội dung, cứ thấy dưới bài thơ đề tên tác giả Phạm Tiến Duật hay một "nhà thơ cách mạng" nào đó, thì là khen ngay thôi, "khá lắm chú em"!

Người này đọc, người kia chép, rồi truyền tay nhau chép lại, riết rồi lộng giả lại tưởng là  chân.

Báo hại mãi đến năm 2007, Tuyển tập thơ Phạm Tiến Duật và nhà văn Nguyễn Khắc Phục vẫn còn bị dính "viên đạn lạc" Lính mà em.


---------------

Thêm:

Cùng thời ấy, khi mà trong sổ tay, bài Lính mà em được đề tên Phạm Tiến Duật, thì bài thơ Hôn vốn của Phùng Quán, (lúc bấy giờ bị rắc rối vì liên quan đến vụ Nhân văn giai phẩm) cũng được nhiều anh bộ đội ghi chệch tác giả là Pêtophi (Sándor Petöfi ), một nhà thơ người Hungary.

Còn nhớ một đoạn:

"Em ơi rất có thể

Anh chết giữa chiến trường

Đôi môi tươi thắm đỏ

Chưa bao giờ được hôn..."


Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

Võ mồm thương chiến Mẽo-Tàu

 


 

Mới đây, Tàu bổ sung 5 nguyên tố đất hiếm, gồm holmium, erbium, thulium, europium, ytterbium, cùng các loại nam châm và vật liệu liên quan vào danh mục kiểm soát hiện có. Như vậy, tổng số loại đất hiếm màTàu hạn chế xuất khẩu đã tăng lên con số 12. Tàu cũng sẽ yêu cầu giấy phép để xuất khẩu các công nghệ sản xuất đất hiếm ra khỏi nước này.

Điều này đã làm Tổng thống Mẽo tức phát điên.

Hiện tại, hàng Tàu đang chịu thuế 30% tại Mẽo, trong khi hàng Mẽo chịu thuế 10% tại Tàu.

Hôm 10/10, Tổng Mẽo cáo buộc Tàu ban hành các hạn chế xuất khẩu như thế là “cực kỳ hung hăng” và đòi sẽ áp thuế bổ sung đến mức 100% và kiểm soát xuất khẩu phần mềm chiến lược từ ngày 1/11. Đồng thời Tổng Mẽo đe dọa hủy cuộc gặp với Tổng Tàu (Tập Cận Bình) tại hội nghị APEC ở Hàn cuối tháng này.

Đáp lại, tổng Tàu chả nói năng chi. Chỉ thấy, ngày 12/10 Bộ Mại bên Tàu mỉa mai rằng đây là “một ví dụ điển hình của tiêu chuẩn kép”, đồng thời khuyên Mẽo “không nên đe dọa bằng thuế quan ở mọi bước đàm phán”.

Ngay ngày hôm sau, Tổng Mẽo xuống giọng, đăng lên mạng xã hội Truth Social, chữa thẹn rằng  "em chỉ muốn giúp đỡ chứ đâu có muốn gây tổn hại cho ngài":

"Đừng lo lắng về Trung Quốc, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Chủ tịch Tập Cận Bình đáng kính vừa trải qua khoảnh khắc tồi tệ. Anh ấy không muốn đất nước mình rơi vào đại suy thoái và tôi cũng thế".


Ngày 13-10, đến lượt Bộ giao của Tàu thách ngược lại, họ tuyên bố sẽ "kiên quyết thực hiện các biện pháp đáp trả tương ứng" nếu Tổng Mẽo thực hiện áp thuế 100% lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc, đòi Mẽo "sớm sửa chữa các hành động sai lầm" và hành xử "trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng và cùng có lợi".

Cuộc võ mồm lần này sinh ra từ loại khoáng sản mang tên là "đất hiếm".

Thực ra, cái gọi là "đất hiếm" này cũng chẳng hiếm lắm, trên thế giới ước tính có khoảng 110 triệu tấn. Trữ lượng lớn nhất là ở Tàu với khoảng 44 triệu tấn, nhì là Việt, với khoảng 22 triệu tấn (chưa khai thác, mới bán lậu sang Tàu một tẹo và đi tù). 

Mẽo cũng có mỏ đất hiếm Mountain Pass với trữ lượng khoảng 1,9 triệu tấn, đang khai thác và và sản xuất cỡ 45.000 tấn/năm, trong khi Tàu sản xuất gấp 6 lần hơn là 270.000 tấn/năm.

Tuy nhiên, cái Tàu làm được mà Mẽo không thể làm chính là công nghệ tinh chế đất hiếm, đặc biệt là loại đất hiếm nặng (phân theo khối lượng nguyên tử). Mẽo tuy xưng hùng xưng bá trong nhiều lĩnh vực về công nghệ nhưng lại không có khả năng tinh chế loại đất hiếm này sau khi khai thác. Hiện tại, bất kỳ lượng đất hiếm nặng nào khai thác từ Mẽo đều phải chở sang Tàu để tinh chế. Đây là một lá bài quá mạnh mà Tàu còn đang ém trong cuộc chiến này. Tàu hiện đang kiểm soát 92% lượng đất hiếm đã tinh chế của thế giới.

Đất hiếm là thành phần có mặt trong nhiều công nghệ và sản phẩm có liên quan tới cuộc sống hiện tại, từ điện thoại thông minh đến tua bin điện gió, đèn LED hay TV LCD. Không có nó thì không sản xuất ra được pin xe điện, máy chụp cắt lớp MRI..v..v.. và các vũ khí hiên đại.

Đặc biệt Mẽo đang rất đói đất hiếm để sản xuất và xuất khẩu máy bay tiêm kích F-35, tàu ngầm, thiết bị laser, vệ tinh, tên lửa hành trình Tomahawk và nhiều vũ khí, khí tài quân sự khác.

Nếu Tàu là vua đất hiếm thì Mẽo cũng là vua con chíp, nhưng hỡi ôi, Mẽo chưa kịp mang ra dọa Tàu thì chính Tàu đã tự hoạn. Tàu buộc các tập đoàn nhà nước phải mua hàng nội, hoặc tự sản xuất ra mà dùng, cấm không được mua chíp Mẽo.

Trong cuộc chiến thương mại Mẽo-Tàu này, dù mới chỉ ở bước đấu võ mồm, rõ ràng là Mẽo vẫn đang ở thế nằm dưới.


-------------



Thứ Ba, 7 tháng 10, 2025

Chuyện bịa về... một người Hà Nội thanh lịch

 


Chị có một khát khao bỏng cháy từ thời thiếu nữ, là trở thành người Hà Nội. Một người Hà Nội thanh lịch.

Chị học đại học ở Hà Nội, học xong, chị xin được việc làm ở Hà Nội. Rồi chị lấy chồng. Anh Định là người Hà Nội gốc, các cụ nhà anh đã ba, bốn đời bán bánh chưng, bánh giò ở ga Phú Xuyên.

Rồi anh chị mua được nhà Hà Nội, ở ngay quận Hai Bà, có thể gọi là khu Trung tâm thành phố. Chị có sổ đỏ và hộ khẩu Hà Nội rồi nhé

Thỉnh thoảng, chị thỏ thẻ hỏi, anh ơi anh thấy em đã thành người Hà Nội chưa. Anh Định âu yếm nhìn chị, rồi thở dài lắc đầu.

Không nản chí, chị tiếp tục phấn đấu. Chị lấy bằng tiến sĩ rồi trở thành trưởng phòng, rồi lên chức vụ phó, rồi nắm quyền vụ trưởng một cơ quan ngang bộ. 

Chị ăn mặc đúng mốt Hà Nội và yêu cắm hoa, nhà chị lúc nào cũng có một hai bình hoa tươi. Rồi chị chơi tranh, mua từ tranh Bờ hồ đến tranh của Thành Chương họa sĩ. Tranh chị treo kín phòng khách và treo tràn sang cả phòng ngủ. Thỉnh thoảng chị còn làm thơ đăng facebook, được người khen lắm lắm. Thế mà anh vẫn chưa chịu công nhận chị là người Hà Nội.

Chị càng ra sức phấn đấu. Đọc sách thấy bậc thầy sành ăn nhất Hà Nội là nhà văn Nguyễn Tuân quyết không ăn mắm tôm và không ăn tỏi sống, chị cũng. Món chân giò giả cầy nhà chị luôn luôn được ướp với mắm tép, còn món rau muống luộc dứt khoát phải được chấm với nước mắm hành.

Ăn phở, nếu là phở gà thì chị vắt chanh mà không chan dấm, còn nếu gặp phở bò thì chị sẽ chan dấm mà không thể vắt chanh. Rõ ra người Hà Nội rồi nhé, tinh tế và thanh lịch đến thế là cùng!

Ấy thế mà anh Định nhà mình khó tính quá. Anh trầm ngâm một lúc, rồi bảo chị: Mẹ em vẫn còn thiếu thiếu một cái gì đấy.

Cái gì đấy là cái gì? Thiếu cái gì, anh chẳng nói. Mà chắc anh cũng chẳng biết...

Một hôm, chị đi họp phụ huynh cho thằng cu con, chị tranh luận với cô giáo về sự kết hợp giữa gia đình với nhà trường rồi lan sang cả việc nâng tầm nền giáo dục quốc gia cho phù hợp với xu thế thời đại...

Về đến nhà, chị vẫn còn bức xúc lắm cơ, chị mách anh: Anh ạ, tiên sư bố cái con giáo mặt l... ấy nó ngu, ngu lắm anh ạ..

Thằng cu con nghe thấy, hét váng cả nhà:

Bố ơi, người Hà Nội. Mẹ thành người Hà Nội rồi bố ơi!

Anh nghẹn ngào ôm chị chúc mừng.

Có thế chứ! Chị đã trở thành người Hà Nội. Một người Hà Nội thanh lịch.


-------------