Hồi thứ tư
Tạp cẩu phát
công, rát mông, cụ đồ tác bạch
Nữ kê tác quái,
ngứa dái, anh Dõng biên thư
Lại
nói chuyện cô Chí nhờ nương theo cái roi
mẹ chồng giao cho mà tác oai tác quái. Đánh dẹp trong nhà ngoài chợ chưa thỏa sức,
cô vác roi sang cả bên làng Giáo, tức là làng Giáo Đại (tôi lại trân trọng đề nghị bạn đọc không “nái lói”, dù theo kiểu Nam
hay Bắc).
Làng
này chắc các bạn cũng biết, rặt một giống cây đa cây đề, tức là toàn các giáo
sư. Mẹ kiếp, bố cô cô còn muốn tống vào tù, chứ sư mới giáo là cái khái niệm
gì, cô chưa hề và cũng cóc cần biết. Vậy là cô “hầu chuyện các giáo sư”, tất
nhiên là bằng roi.
Cô nguyện làm "Cái
ô văn hoá” che cho mẹ chồng mà hạch
tội các giáo sư.
Đầu
tiên cô soi về văn thơ của cụ cố (cụ cố nói đây chính là cụ khai sinh ra mẹ chồng)
do một hội đồng các cụ đồ biên soạn thành giáo khoa thư để dạy cho bọn trẻ con
trong làng, chả biết các cụ viết lách biên soạn thế nào mà để cô bù lu bù loa,
rằng các giáo sư cố tình “hạ thấp thơ văn cụ cố” và có quan điểm “thơ văn cụ cố
chỉ để giải trí”.
Lúc
bấy giờ các cụ tuy bực mình nhưng còn chủ quan khinh địch lắm, vì cho rằng thứ
nhất là cô thuộc loại thất học, chả chấp, vả lại võ vẽ nhà cô chỉ đáng phủi bụi
cho các bậc “sư phụ của sư phụ” như
các cụ, thứ hai là cô còn đang ra đòn vào cả làng, chưa có đối tượng cụ thể,
nên cụ nào cũng nghĩ là chắc “nó chừa mình ra”.
Tai
hại thay, các cụ giáo lại không biết rằng, vâng, đúng là cô thất học, nhưng chính
vì thế, võ công tà phái “tạp cẩu pháp” của cô mới ảo diệu biến hóa
khôn lường, ở mức thượng thừa…. tức là
còn trên cả vô học. Đã vậy, không hiểu cô ton hót thế nào mà các cáo buộc của
cô lại được đám thị tỳ của mẹ chồng dán hàng ngày lên ngay trên bảng tin giữa
đình. Các cụ bắt đầu hoảng. Và cô được đà, bắt đầu lôi từng cụ, từng cụ một ra
sân đình. Duy tiên sinh Trần Quốc Vượng cứ tỉnh bơ cười nụ, cụ này khôn lắm.
Cụ
Trần Hữu Tá, tội “...
cùng một vấn đề, lúc bảo đen, lúc bảo trắng… như gà mắc tóc, viết lách lung
tung”.
Cụ
Lê Trí Viễn, tội “ gọi văn học VN là một thứ tầm tầm, có
cũng được, không có cũng được”;
Cụ
Trần Đình Sử “đáng
phải ra toà vì ông ấy xúc phạm đến đại thi hào dân tộc…”;
Cụ
Nguyễn Đăng Mạnh, còn ấu trĩ, “chưa am tường…,
chưa đủ kiến thức tối thiểu…”;
Cụ
Trần Ngọc Thêm, không biết cách “định nghĩa từ
ngữ, khái niệm, sự việc”;
Cụ Phong Lê (và khuyến mãi thêm tên
Phạm Xuân Nguyên “trẻ người non dạ”) “còn là kẻ đón
gió, muốn lấy lòng hải ngoại nên đã phủ nhận sạch trơn giá trị của thơ ca” nhà chồng;
Rồi
thì một loạt các cụ đại đồ Hoàng Như Mai, cụ Lê Ngọc Trà, cụ Nguyễn Văn Hạnh, cụ
Nguyễn Lộc, cụ Nguyễn Đình Chú, cụ Hồ Sĩ Vịnh, cả cụ Trần Quốc Vượng nữa, … đều
hân hạnh được cô đem “tạp cẩu pháp” ra “hầu chuyện” .
Có cụ "được" cô chiếu cố "quất" đến 25 lần
và thậm chí cô tuyên bố sẽ còn “quất’ nữa...
nếu cụ ngoan cố.
Cô
dõng dạc tuyên bố: “ Tầm roi vọt của tôi nằm ở khắp mọi nơi, không có ngoại
lệ”.
(trả lời Tường Vân).
Nhưng,
mọi sự trên đời, chả có cái chó gì mà không có ngoại lệ, cụ Trần Quốc Vượng vẫn
cười nụ.
Cho
nên cô mới kể lại (trả lời phỏng vấn trên báo LĐ): “Ai không chịu tiếp thu, chịu nhận khuyết điểm, tôi sẽ tiếp
tục phê bình. Có lần, giáo sư Trần Quốc Vượng nói qua người bạn của tôi, rằng
có những chuyện cô Chí chỉ ra đúng cái sai của ông ấy. Thế là tôi thôi không viết
về ông Vượng nữa”.
Đấy,
đã bảo mà, cụ giáo Vượng khôn lắm!
Tội trạng chung của các cụ đồ sau
này được cô báo cáo lại với đám lưu manh ngoài biển (lưu
tại Gió-o.com) thế này:
“Các vị giáo sư đầu ngành khoa nhân văn này quả tình có tội rất
lớn với dân tộc VN, đã chính trị hoá toàn bộ khoa học nhân văn, góp phần dạy sai
văn, dạy sai sử, dạy sai triết, dạy sai...cả đạo đức, luân lý cho phù hợp với
tính đảng, tính giai cấp, là những thứ tính tiêu diệt hết tính khoa học của
khoa học nhân văn...Các vị giáo sư này còn có một tội lớn là bán bằng bán cấp
để có nhà, có xe, có tài sản như hiện nay, khiến nhiều vị cán bộ cao cấp chưa
hết trung học vẫn có bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Nền giáo dục xuống dốc tận cùng như
hôm nay, lỗi tại cơ chế chính trị sai lạc đã đành, nhưng cũng lỗi bởi các vị
giáo sư đầu ngành khoa học nhân văn này bảo hoàng hơn vua đấỵ”.
Nhân tiện, cô lại cho biết là cô có hơn 10.000
kẻ thù mà trong đó phần lớn là học trò của các giáo sư.
Đến nước ấy thì các cụ đã nát hết cả
mông, bởi chiêu “tạp cẩu pháp” bàng
môn tà đạo của cô Chí, các cụ hè nhau thầy trò viết chung một bản Tác bạch “Về một hiện tượng cắn càn”, dày tới 571
trang, cử bác phó Nguyễn Hữu Sơn, vào một đêm không trăng sao, lò dò dán lên
bảng tin góc đình, ấy thế mà chỉ đến tầm 8h sáng đã bị tổ cha đứa nào bóc mất,
chỉ có vài người kịp đọc. Trong tập Tác bạch đó, tôi nhòm thấy có mấy nhời của anh
Dõng.
Bấy giờ cô Chí đang ở đỉnh điểm của
vinh quang quyền lực, được mẹ chồng ưu ái lắm, cô được cất nhắc, được cho sang chơi
nhà cụ bá Sam, cô khoe “mỗi dịp tết lĩnh vài ba chục triệu”. Danh
tiếng cô lúc ấy đã vượt ra ngoài lũy tre làng, bọn ngoài bờ biển năm xưa từng
xúi cô trổ tài “mặc váy chồng cây chuối”
lại đánh tiếng, mời cô giao lưu tổng hợp,
hứa có khuyến mãi lớn.
Nhưng cái dở của cô, cũng là thứ dở chung
của bọn đàn bà ít học, là bệnh nói nhiều, mà riêng cô, bệnh ấy nặng hết thuốc
chữa, thành ra hay nói phét, nói hớ và nói bậy, nói tùm lum ở những chỗ tà la, rất
không nên hoặc không đáng nói.
Cô lại tưởng với võ công tà đạo “tạp cẩu pháp” của cô ở mức thượng thừa,
danh trấn giang hồ, thì có cơ lấn át tất cả các chính phái bàng môn trong làng
ngoài nước. Cô đâm ra coi thường mẹ chồng, cô đinh ninh duy cô mới là “đỉnh cao
trí tuệ”.
Sự nổi tiếng như thế vẫn chưa làm cô
toại nguyện, cho nên cô “ nhiều khi buồn quá, một mình xơi hết vài vò rượu, máu
“Sở cuồng” nổi lên, chúng tôi bèn hứng chí đốt đuốc đi tìm đền để đốt …Than ôi, bi kịch của kẻ muốn đốt đền
mà không tìm ra đền để đốt mới sầu muộn làm sao!” (đối thụi Lạc Huấn)
Nhân vào hồi tháng 4/2006, nhà chồng
mở hội mừng mùa vụ lần thứ 10, bà mẹ chồng mời mọi người trong nhà liên hoan. Cô
mặc dù lập nhiều “chiến công” trong việc canh nhà gác chợ, nhưng vẫn chỉ được
coi là kẻ ngụ cư, vì thực tế, cô đã bị cắt hộ khẩu từ mấy năm trước, nên không ai
muốn cô dự tiệc. Điều này chẳng có gì lạ, bởi cũng như Chúa của cô đã quy định
rằng chỉ có gà trống mới được gáy, còn gà mái thì chỉ được … cục tác, đơn giản
vậy thôi, nhưng cô, phận gà mái, lại cứ muốn gáy, lại gáy theo kiểu …cục tác,
thì ấy lại là điềm “gà mái gáy”, xưa nay gọi là điềm “nữ kê tác quái”, điềm quái dị, cực gở.
Ấy vậy mà cô vẫn không có ý tứ, cô vẫn
hăng hái chĩa mỏ vào bàn tiệc mà gáy, mặt đỏ tía tai, gân cổ lên mà gáy, càng
gáy, trong nhà lại càng cố tình lơ đi, nên cô uất ức lắm, càng lơ, cô lại càng
tức, thế này thì tức lắm, tức chết đi được! Trong nhà chẳng nghe thì cô la làng
cho bõ ghét. Cô bèn hướng ra ngoài cục ta …ó o… cục tác …o ò … ầm ĩ.
Phen này cô quyết Ly thân lần nữa
cho cả làng biết mặt, cô quyết “đốt đền”
để lấy tiếng với bọn bên ngoài. Cái đền cô nhắm đến, to lắm, chẳng ở đâu xa, là
đền thờ cụ tổ nhiều râu bên chồng.
Cô nhất loạt đề khí vận công “tương phong đảo diện”, vọng ngược lên
bàn thờ cụ tổ mà nhăm nhăm phát hỏa, cô miệt thị cụ chỉ là cái “gương đen”,
rằng trình cô còn xa hơn cụ “cả một tầm trí thức”, chẳng những thế, cô còn
ỷ mình giỏi “tạp cẩu pháp” mà thách đấu
với cả họ nhà chồng.
Đến đây thì anh Dõng nhà ta ngứa, chịu
hết nổi, nghe cô Chí gáy, nhìn cô Chí giao lưu tổng hợp anh đã ngứa dái lắm,
nhưng mà anh không cần gãi, thế mới tài, anh biên ngay một cái thư, gửi thẳng nhà
chồng cô Chí, bảo đại ý, tại sao nhà các
ông các bà để con gà mái ấy nó gáy bậy gáy bạ như ở “chỗ không người” mãi thế ? Sao không ai ra tay, hay là để
tôi, người ngoài, đập chết cha nó bây giờ! Đấy, thế là bạn đọc đã hiều tại sao tôi gọi anh là
anh Dõng.
Cái thư ấy lưu lạc thế nào lại đến
tay bọn con buôn, cô Chí mua lại làm tang vật để chứng minh anh Dõng là kẻ bạc
tình, “mới” “yêu” cô mà “nay” lại phũ phàng với cô.
Chết thật, phen này thì anh hết
đường cãi ?!
------------------
Kỳ cuối
Hồi thứ năm
Rạch mặt la làng, ngựa quen đường cũ
Tụt quần giữa phố, gái đĩ già mồm
Đọc hồi hộp và...chỉ sợ hết.
Trả lờiXóa