Dẫn:
Những
người chủ trương “rửa oan” cho cụ Phan Thanh Giản thường “bấu víu” vào mấy bài
thơ, văn của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà họ cho rằng, những bài đó ca ngợi Phan
Thanh Giản.
Ông
Phan Huy Lê, (trong bài viết tổng kết hội thảo “Thế kỷ XXI nhìn về
nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”?) dĩ nhiên không quên điều đó và đã trích
dẫn Cụ Đồ Chiểu ngay trong phần dẫn nhập:
“Trong
lúc đó, những nhà yêu nước đồng thời với ông như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tỏ
thái độ thương tiếc và trân trọng đối với PTG qua bài thơ điếu (cũng có người
giải thích cách khác):
Minh
tinh chín chữ lòng son tạc/ Trời đất từ rày mặc gió thu.
Và
trong bài "Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong", nhà thơ Đồ Chiểu một
lần nữa nêu cao Trương Định và PTG:
"Phải
trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh
Ý
người đặng xem tấm bản phong trần, Phan học sĩ hết lòng cứu nước".
Quả
thật, nếu đã được cụ Nguyễn Đình Chiểu thật lòng ca ngợi, thì Phan học sĩ đời
xưa há cần đến các Phan học sĩ thời nay minh oan?.
Nhưng
có thật cụ Đồ Chiểu ca ngợi Phan Thanh Giản hay không?
Ông
Lê đã khôn ngoan lại thêm đức tính thận trọng nên ông cẩn thận chua rằng “cũng
có người giải thích cách khác” nhưng lại cố tình không diễn giải cái “cách
khác” ấy là như thế nào, là khen cách khác hay ngược 180 độ là chê. Nói thẳng
ra, đó là sự thiếu minh bạch của một người làm sử.
Bài viết sau đây của
nhà văn, bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh dẫn lại bài “Viết về Phan Thanh Giản,
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng bút pháp Xuân Thu” của bà Phạm
Thị Hảo, cố giảng viên môn Văn học cổ Trung Quốc tại ĐHSPTPHCM sẽ giúp cho
bài viết của GS. Phan Huy Lê thêm "minh bạch".
Locliec
sẽ đăng tiếp một số bài viết của nhà văn, bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh về
vấn đề Phan Thanh Giản.
----------------
Nguyễn văn Thịnh
CỤ ĐỒ CHIỂU CÓ LÀM THƠ
KHÓC THƯƠNG PHAN THANH
GIẢN?
Trên một FB ngày 22/01/2015 có bài “Viết
về Phan Thanh Giản” dưới bút danh Nguyễn Anh Văn, viết: “Có một số "anh
hùng bàn phím" không rõ ghen ăn tức ở với ai, vì lẽ gì mà đăng đàn chửi
bới, nói rằng các nhà sử học đổi trắng thay đen, nhằm viết lại lịch sử...”. Xin
thưa, chuyện Phan đại thần cách nay 150 năm rồi. Nước mất thì dân ta đã lấy lại
được. Người chết chẳng thể sống lại hại ai.
Cuộc
sống bề bộn không thiếu gì nỗi buồn lo mới. Sức đâu mà nghĩ điều ân oán của
chung thiên hạ? Nhưng với lịch sử còn rành rành ra đấy trên những trang giấy
chưa mờ, trên những lời răn dạy truyền qua mấy thế hệ còn nghe từng hơi thở.
Những con người ai dũng ai hèn. Những sự kiện đớn đau uất hận mà tiền nhân ta
phải chịu. Khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại cho phép ta có đủ độ chín, tầm
nhìn để cần lên án ai và tha thứ cho ai, thậm chí cần quên đi những điều nhỏ
nhặt. Cái sự quên như con dao hai lưỡi. Nó có thể khiến con người ta không còn
gốc gác. Khi con người không biết mình là ai thì có gì phải giữ? Phó mặc sự
đời! Tuy nhiên, nhờ có sự quên cũng giúp người ta tự quăng đi sự trì níu vô
duyên để thênh thang dài bước trên con đường vạn dặm. Cuộc đời 74 năm của cụ
Phan không phải là xấu hết. Nhưng với một con người đến lúc “cái quan nhận
định” là đời đã có thể nói câu kết cuối cùng. Phan nhân là bậc chí sỹ, là quan
đại thần trọng yếu nắm chính sự quốc gia. Người xưa nói: “Quốc gia hưng vong
thất phu hữu trách”, “Nước loạn mới biết tôi trung”. Người dân nhìn ông là bậc
chí sỹ có trách nhiệm cao trước đấng quân vương, trước thần dân trăm họ; nhìn
ông là trụ cột triều đình đã làm được gì lúc quốc gia vong biến? Chính sử của
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đánh giá công minh: “Để mất nước, các vua
nhà Nguyễn là chính phạm, các triều thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng
trong sự kiện để lục tỉnh Nam kỳ lọt vào tay giặc thì Phan là chính phạm”. Chữ
ký của Phan, Lâm với tên quan Pháp Bonard năm 1862 dâng ba tỉnh Biên Hoà, Gia
Định, Định Tường, đảo Côn Lôn và bức công thư dụ hàng của Phan khâm sai năm
1867 để ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên lọt vào tay tướng Pháp De
Lagrandière còn lưu trong thư khố. Ông bạn tên Văn cũng thừa nhận rằng: “Phan
Thanh Giản có phần trách nhiệm trong việc để mất 6 tỉnh Nam kỳ” và “Phan Thanh
Giản phải lãnh trọng trách liên quan tới vận nước và ông đã không làm tròn”!
Vậy thì hậu thế nên thông cảm và hãy thương ông, để ông thảnh thơi yên giấc,
chớ sao lại dựng ông dậy, đưa ông ngồi vào đền thờ các bậc thánh sư thì ông đâu
dám nói gì? Và còn dám nhìn ai khi dựng ông thành tượng đứng nghênh ngang trên
mảnh đất thấm đẫm máu xương của bao nhiêu thế hệ bởi chính ông đã không làm
tròn trọng trách trước thiên tử, trước muôn dân?! Thế mới nên chuyện để đời soi
mói. Càng làm khổ người đã khuất! Giữa hai người con đồng thời của đất Nam Kỳ:
Trần Văn Giàu và Võ Văn Kiệt, nên tin ai khi mỗi người nhìn Phan nhân một khác?
Trong lúc cả xã hội đang rất lo lắng bởi lớp trẻ thờ ơ với môn sử học mà lại có
những ông thầy bảo chúng cúi đầu tạ ơn một viên đại quan hèn bạc nhược trốn
tránh trách nhiệm quốc gia! Trước lũ giặc mới hùng hổ như cọp beo, xảo quyệt
như lang sói, đang lau súng mài dao trước ngõ thì lớp trẻ biết noi tấm gương
nào để bảo vệ nước non này?
Cái chết của Phan Thanh Giản không thể
coi là tử tiết dù ông nói rất hùng hồn: “Lá cờ ba sắc không thể phấp phới bay
trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” vì “Phan Thanh Giản
không đội trời chung được với giặc Phú lang sa”?! Thực ra Phan đã không như
Hoàng Diệu treo cổ chết ngay trong thành Hà Nội; như Nguyễn Tri Phương không
chịu cứu trị vết thương, nhịn ăn quyết chết theo thành; như Võ Duy Ninh tự
thương chết ngay trước thành Gia Định. Trái lại, Phan thủng thẳng ra sống tại
một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh Long, tỉnh táo sắp xếp mọi việc chu đáo.
Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức xin xá tội. Ông gởi một bức thư dài cho
Lagrandière: Hết lời ca ngợi “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại
dương” (!); ca ngợi Hải quân Trung tướng Bonard với “những võ công hiển hách
chinh phục xứ này, là người đồng chung một ý tưởng từ lâu về vấn đề lấy xứ Nam
kỳ làm thực dân địa và rất tiếc là người đã ra đi trước, bây giờ tử thần sẽ cho
hai ta gặp mặt trong sự vĩnh cửu, sẽ sung sướng vô biên giới và tình huynh đệ
không thể tan rã được” (!); ca ngợi Đề đốc Rigault de Genouilly “có tầm nhìn xa
biết chiếm lấy Sài Gòn để xây dựng thành trung tâm bền bỉ lâu dài” (!); ca ngợi
Đề đốc Lagrandière “là người tạo lập ra thuộc địa Nam kỳ” (!)… toàn là những từ
hoa mỹ nể trọng, ân tình thắm thiết! Trong khi vị quan đồng liêu Phạm Phú Thứ
khi nói đến lũ giặc mắt xanh mũi lõ, lúc nào cũng dùng những hình dung từ miệt
thị như: “heo lớn”, “rắn dài”, “sài lang”… Phan bày lòng ra “đã dành dụm được
mấy ngàn quan” và ngỏ lòng “giao cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn
học thành tài”!... Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt tin, ông thất
vọng biết rằng tội kia không thoát chết! Gần một tháng sau khi phát thư dụ hàng
thì ông “tuyệt cốc” (nhịn ăn). Nửa tháng không chết, ông uống á phiện pha với
dấm thanh. Trong thời gian ấy nhiều quan lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc
ông một mực từ chối. Theo thơ tường trình của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham
mưu trưởng kể về những giờ cuối đời của ông quan này: “… Lúc các ông quan (Nam
triều) còn lại ở Vĩnh Long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng
tôi đã phải gần như ép ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới
khiến ông nuốt được một chút giải độc. Nhưng ngay khi ông được biết là các quan
đã bỏ đi và chỉ còn có mình ông với chúng tôi (mấy sỹ quan Pháp) thì ông đã
thuận mọi điều, lại hỏi: “Liệu có cứu được tôi không?” Than ôi, khi đó đã quá
muộn rồi!”. Cụ Đồ Chiểu mù mà có “con mắt sáng” nhìn rõ tâm can của “ông bạn”
già này, mới hạ lời tiễn biệt: An đắc thung dung tựu nghĩa thần (Sao có thể
thung dung thành thần được!). Thì ra quan lớn khéo “tu” nên đã thành tinh.
Chẳng những lừa được thiên hạ đương thời, lại lừa được hậu thế hàng trăm năm
nữa! Trong lịch sử Việt Nam chưa có viên đại quan nào làm những việc bất minh
trước Trời-Đất-Quỷ-Thần mà còn để lại bao nhiêu điều rối ren cho hậu thế!
Ông bạn tên Văn lý sự: “Khoan bàn đến
việc các nhà sử học có tắc trách hay cố ý "viết lại lịch sử" hay
không, thì không gì bằng hãy lắng nghe ý kiến của một con người cùng thời với
Phan Thanh Giản: Nguyễn Đình Chiểu được xem là ngọn cờ đầu của công cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Nam Bộ thời bấy giờ đã khóc thương khi hay tin Phan Thanh
Giản mất. Nhà thơ mù đất Bến Tre bằng ngòi bút "đâm mấy thằng gian bút chẳng
tà" luôn có con mắt sáng khi nhìn sự việc: ông đánh giá sự hy sinh của
nghĩa binh Cần Giuộc đánh đồn, cũng như khi ông làm 2 bài thơ điếu Phan Thanh
Giản với lời lẽ thắm thiết thương cảm lắm”.
Từ năm 2009, nhà nghiên cứu sử Dương
Trung Quốc và nhà văn Hoàng Lại Giang cũng nói y như ông bạn vậy. Nhiều vị hiểu
nho đã chỉ bảo rõ rồi. Chả hiểu mấy ông có biết bào đệ của nhà thơ cũng là một
nghĩa binh trong đội quân của “Bình tây đại nguyên soái” và đã “vị quốc vong
thân” cùng chủ tướng, thì sao Cụ Đồ lại có thể thương khóc người đã chỉ chọc
cho giặc cắt đôi khúc ruột của mình?! Vả lại đọc thơ cổ Xuân-Thu không dễ như
đọc thơ con cóc! Nhiều bạn hiểu biết Hán học đã chỉ rõ những câu thơ “ý tại
ngôn ngoại”, tưởng khen mà chê, tưởng thương mà hận, tưởng bi mà hài! Trên Tuần
báo Văn nghệ TPHCM số 55, Thứ năm ngày 26/3/2009, nhà giáo Phạm Thị Hảo, giảng
viên môn Văn học cổ Trung Quốc tại ĐHSPTPHCM đã có bài: “Viết về Phan Thanh
Giản, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng bút pháp Xuân Thu”, giảng giải rành
mạch thâm ý của cách “đối” thơ Hán-Nôm là như thế nào. Tôi sưu tra đưa trình
toàn văn bài viết đó, các bạn đọc xem sẽ rõ. Cũng là nén hương tưởng nhớ một
nhà giáo lão thành khiêm nhường và tâm huyết.
TPHCM ngày 25 tháng 01 năm 2015
-------------
Tuần
báo Văn nghệ TPHCM
Số
55 Thứ Năm ngày 26 tháng 3 năm 2009
VIẾT VỀ
PHAN THANH GIẢN NHÀ THƠ
NGUYỄN ĐÌNH
CHIỂU ĐÃ DÙNG BÚT PHÁP XUÂN THU
Phạm Thị
Hảo*
Trong lý luận văn nghệ cổ đại Trung Quốc
có thuật ngữ “Bút pháp Xuân Thu” tức là văn chương viết theo lối của Khổng Tử
trong bộ Kinh “Xuân Thu”, hàm súc, ngắn gọn, dùng chữ nghĩa thâm thúy thể hiện
sự khen chê (xưa gọi là bao biếm) đối với một nhân vật hoặc một sự kiện nào đó.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã chủ trương
dùng “Bút pháp Xuân Thu” trong sáng tác của mình: “Học theo ngòi bút chí công/
Trong thơ có ngụ tấm lòng Xuân Thu” (Lục Vân Tiên). Và ông đã vận dụng nhất
quán tinh thần đó trong các tác phẩm tiêu biểu. Chỉ tìm hiểu 2 bài thơ của ông
điếu Phan Thanh Giản, có thề thấy điểm này thể hiện rõ ràng.
Bài thứ nhất viết bằng chữ Hán:
Lịch sĩ
tam triều độc khiết thân
Phi công
thùy tản nhất phương dân
Long Hồ
uổng phụ thư sinh lão
Phụng
Các không vi học sĩ thần
Bỉnh
tiết tần lao sinh Phú Bật
Tận
trung hà hận tử Trương Tuần
Hữu
thiên lục tỉnh tồn vong sự
Nan đắc
thung dung tựu nghĩa thần
Hai câu thơ đầu là lời chân thành mến
phục:
Làm quan trải ba triều vua, ông vẫn
riêng mình giữ được tấm thân trong sạch.
Không có ông thì ai là người che chở cho
cả một phương dân chúng.
Là nhà thơ tích cực luôn ưu thời mẫn
thế, yêu nước thương dân, tất nhiên Nguyễn Đình Chiểu tán thưởng và kính phục
đạo đức, công lao của Phan Thanh Giản. Sức nặng của chữ nghĩa: lịch sĩ, độc khiết
thân, phi công, thùy tản cho thấy một sự đánh giá cao và chân thành.
Bút pháp Xuân Thu bắt đầu phát huy tác
dụng ở hai câu 3, 4:
Long Hồ
uổng phụ thư sinh lão
Phụng
Các không vi học sĩ thần
Ở Long Hồ (nơi quê hương), ông đã uổng
phụ cái chí làm người học trò già
Nơi Phụng Các (chốn làm quan) ông đã làm
một cách hão người bề tôi học sĩ
Hai cụm từ “uổng phụ” (phụ bỏ uổng phí)
và “không vi” (làm một cách vô ích, làm hão, chẳng tích sự gì) là sự phiền
trách, xót tiếc nặng nề biết bao.
Phan Thanh Giản từng tự xưng là “thư
sinh lão”, là người học trò già lương thiện, khiêm nhường, nhưng với việc làm
của ông dâng đất dâng thành cho giặc chứng tỏ ông đã “uổng phụ” cái chí thanh
cao đó. Việc làm của ông đã phủ định tài năng “học sĩ thần” của ông.
Đến câu 5,6 thì càng uẩn áo hơn:
Bỉnh
tiết tần lao, sinh Phú Bật
Tận
trung hà hận, tử Trương Tuần
Bút pháp Xuân Thu cho thấy ở đây 2 tầng
ý nghĩa:
Mới đọc, có thể hiểu là sự đánh giá rất
cao:
Cầm cờ tiết đi sứ, nhiều phen vất vả,
sống như Phú Bật
Tận lòng trung, còn gì phải hận, chết
như Trương Tuần
Nhưng người đọc nào có hiểu biết về 2
nhân vật Phú Bật đời Tống và Trương Tuần đời Đường sẽ thấy đây là một sự so
sánh phản diện, hàm ý mỉa mai (Phú Bật là người đời Tống Nhân Tông, vâng mệnh
đi sứ Khiết Đan, đã lao tâm khổ tứ, hết lòng thuyết phục địch, cuối cùng đem về
thắng lợi cho đất nước. Trương Tuần người đời Đường, đã dũng cảm chống giặc giữ
thành, bị giặc bắt, đánh đập tàn tệ, vẫn kiên trinh và tử tiết trong tay giặc)
sẽ không thể tin rằng một người yêu nước, đang đứng trong hàng ngũ nghĩa quân
để chống giặc như Nguyễn Đình Chiểu lại có thể ví Phan Thanh Giản với hai nghĩa
sĩ ngoan cường nổi danh này được. Phan đâu có gian lao vất vả đòi được đất về
cho dân cho nước như Phú Bật? Phan đã đầu hàng dễ dàng hết đợt một đến đợt hai,
Phan đâu có kiên trinh tử tiết trong tay quân giặc như Trương Tuần mà là tự hủy
thân mình vì thất vọng, vì xấu hổ. Lúc gần chết lại còn lo sợ, hỏi ông cố đạo
bên cạnh là liệu thuốc giải độc “có cứu được tôi không?”.
“Bút pháp Xuân Thu” khiến người đọc tự
suy mà thấy ý. Từ hàm nghĩa từ ngữ và kết cấu văn pháp, từ đặc điểm “ý tại ngôn
ngoại” của thơ ca văn ngôn, từ sự kết hợp với nhận thức tư tưởng của tác giả và
thực tế hành vi của nhân vật, mới có thể hiểu tầng sâu của ý nghĩa như sau:
Cầm cờ tiết đi sứ mà nhiều phen vất vả
(đem lại lợi ích cho dân cho nước) thì ông sẽ sống như Phú Bật.
Hết lòng trung (mà là minh trung) với
vua với nước (chết oanh liệt vì lòng trung ấy), thì có gì phải hận, ông sẽ chết
như Trương Tuần.
Hai câu thơ tưởng là ca ngợi mà lại là
trách cứ, sâu xa biết bao!
Đến câu 7:
Hữu
thiên, lục tỉnh tồn vong sự
Người đọc có thể hiểu 2 cách:
- Có trời (thấu hiểu cho ông) về chuyện
mất còn của 6 tỉnh
- Có trời (phán xét ông) về chuyện mất
còn của 6 tỉnh
Và sẽ chọn được cách hiểu đúng nhất nếu
gắn liền với câu tiếp sau:
Nan đắc
thung dung tựu nghĩa thần
Khó mà có thể thung dung làm vị thần tựu
nghĩa được)
Hoặc: An đắc thung dung tựu nghĩa thần
(Sao có thể thung dung làm vị thần tựu
nghĩa được)
Vậy là ý phê phán thật đã rõ ràng:
- Có trời phán xét chuyện mất 6 tỉnh mà
ông đã gây nên!
- Ông khó mà có thể thung dung thành vị
thần tựu nghĩa được!
Câu cuối này khẳng định thái độ của
Nguyễn Đình Chiểu. Và cả bài thơ la sự thông cảm, nhưng phê phán và xót tiếc
cho lỗi lầm của người quá cố.
Bài điếu thứ hai là thơ Nôm:
Non nước
tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu
mây bạc cõi Ngao châu
Ba triều
công cán đôi hàng sớ
Sáu tỉnh
cương thường một gánh thâu
Trạm Bắc
ngày chiều tin điệp vắng
Thành
Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh
tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất
từ nay mặc gió thu
Bài này cũng được “bút pháp Xuân Thu”
thể hiện hai tầng ý nghĩa:
Hai câu đầu là một nỗi đau buồn. Buồn
cho đất nước bị giặc tàn phá tan tành. Nơi Ngao châu, quê hương cụ Phan giờ đây
mây buồn che phủ. Thương tiếc người đã chết chăng? Đó là tầng nghĩa nông.
Tầng nghĩa sâu cho thấy cụm từ “hệ bởi
đâu?”. Không chỉ là nỗi đau mà còn là nỗi “hận”. Đất nước tan tành như thế, căn
nguyên nào? Bởi vì ai? Thực tế ai cũng hiểu: đối tượng hậu trách là quân giặc,
là Phan Thanh Giản và cả triều đình Huế. Câu 2 lại chỉ nói đến Ngao châu là quê
Phan và suốt cả bài thơ cũng chỉ nói đến Phan. Vậy có thể hiểu như sau:
Mây trắng đau buồn phủ khắp cõi Ngao
châu. Cả vùng Ngao châu đau buồn vì người con của quê hương vốn được mến mộ mà
nay lại đắc tội với dân với nước, gây nên nông nỗi.
Câu 3 và câu 4 cũng có tầng nghĩa nông
là ca tụng:
Ba triều
công cán đôi hàng sớ
Sáu tỉnh
cương thường một gánh thâu
Nhưng đọc kỹ hai cụm từ “đôi hàng sớ” và
“một gánh thâu” thì lại thấy ý ngược lại.
Một vị đại thần đầy tài năng mà suốt 3
triều vua rút cục chỉ có “đôi hàng sớ” thôi ư? Phải chăng đây là đôi hàng sớ
cuối cùng Phan nhận tội với triều đình? Và như vậy thì “Ba triều công cán” của
ông quan này chẳng còn gì đáng kể.
Đến câu sau thì cụm từ “một gánh thâu”
có sức nặng ngàn cân để phủ định cụm từ “sáu tỉnh cương thường”. Vì chữ “thâu”
có nghĩa là thua, là mất, là thất bại, ngược lại với doanh là được, là thắng.
Vậy là đạo đức cương thường của cụ Phan
từng nổi tiếng 6 tỉnh nay chỉ còn là “một gánh thua”, một sự thất bại nặng nề
mà thôi. Chao ôi, đau xót thay, mà cũng đáng trách thay!
Tiếp tới hai câu 5,6:
Trạm Bắc
ngày chiều tin điệp vắng
Thành
Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Hai câu này cực tả tình cảnh đáng thương
của Phan trước lúc qua đời. Tài liệu cho biết: Sau khi nộp thành, dâng đất cho
Tây, Phan Thanh Giản gói mũ áo, phẩm hàm, kèm theo sớ tạ tội, gửi về triều bằng
tàu tốc hành (tàu Pháp) rồi khắc khoải chờ đợi, chắc còn hy vọng sẽ lại được
tha tội như lần trước, sẽ lại được phục chức, trọng dụng. Song, mỏi mòn chờ
mãi, chờ nửa tháng trời, tin điệp vẫn chẳng thấy đâu. Lo lắng rồi thất vọng,
rồi tuyệt vọng, biết chắc bị bỏ rơi rồi. Cuối cùng tự tìm đến cái chết vào lúc
nửa đêm, giờ Tý ngày 5-7 năm Đinh Mão tức 4-8-1867.
Nguyễn Đình Chiểu đã thấu hiểu, thông
cảm với tình cảnh đáng thương này. Hai câu thơ càng khẳng định rằng cụ Đồ không
thể so sánh cụ Phan với Phú Bật và Trương Tuần được.
Hai câu cuối cùng vừa chua chát vừa đau
buồn trong ẩn ý của chúng:
Minh
tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất
từ nay mặc gió thu
Bốn chữ “Minh tinh chín chữ” đã được các
nhà nghiên cứu phân tích là cụ Đồ uyên thâm cố ý dùng “chín chữ”** thay vì
“mười một chữ”** như trong di chúc cụ Phan để lại, để chữ “cữu” ứng với chữ
“quỷ” chứ không phải chữ “linh” (Phan Thanh Giản dặn con cháu ghi trên minh
tinh của mình 11 chữ:
Đại
nam hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cữu:
(Quan tài của người học trò già họ Phan
nơi góc biển nước Nam)
Cụ Đồ dùng 9 chữ thì sẽ như sau:
Hải nhai
lão thư sinh tính Phan chi cữu**
(Quan tài của người học trò già họ Phan
nơi góc biển)
Và theo phép đề minh tinh: Chín chữ thì
chữ cữu sẽ ứng với chữ “quỷ”, còn nếu 11 chữ thì “cữu” sẽ ứng với chữ “linh”.
Như vậy, cụ Đồ xem như cụ Phan chết đi chỉ thành ma chứ không thể thành thần
được.
Điều này, những người có tấm lòng son
với nước với dân (cả cụ Phan, cả cụ Đồ, cả mọi người dân) đều ghi nhớ mãi không
quên. Đó là một bài học.
Đến câu chót “Trời đất từ nay mặc gió
thu”.
Hai chữ “gió thu” ở đây rất quan trọng.
Có người hiểu là “gió lành, gió mát” và giải nghĩa cả câu theo kiểu “gọt chân
cho vừa giầy” rất khiên cưỡng và tối nghĩa. Tôi tra trong “Hán ngữ đại từ điển”
(nhà XB Thượng Hải - 2004) thì thấy rành rọt: Thu phong là gió từ phương tây
thổi lại, là gió tây (nghĩa thứ 11, và mục từ điều “Thu phong”). Cũng như nhiều
nhà Nho khác, dù làm văn thơ Nôm, cụ Đồ cũng thường dùng xen vài từ Hán, vì
tiếng Việt đã đồng hóa nhiều từ tiếng Hán, rất nhiều từ đã được Việt hóa rất tự
nhiên. Ngay trong bài thơ này cũng có đến mười mấy từ Hán như vậy.
Vậy có thể hiểu câu thơ là lời than đau
xót: “Đất nước từ nay mặc sức gió Tây tung hoành vùi dập. Sáu tỉnh phương Nam
từ nay mặc sức giặc Tây giày xéo”.
Ngoài 2 bài điếu, Nguyễn Đình Chiểu còn
tỏ thái độ đối với Phan Thanh Giản qua 2 câu thơ trong bài “Văn tế nghĩa sĩ
trận vong lục tỉnh”:
Phải
trời cho cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh
Ít người
đặng xem tấm bảng phong thần Phan học sĩ hết lòng mưu quốc
Câu trên ca ngợi tướng quân Trương Định
và đau lòng trước sự hy sinh của ông, trước sự thất thế của nghĩa quân.
Câu dưới là nói về Phan Thanh Giản.
Nhiều người chỉ chú ý mấy chữ sau mà không quán xuyến toàn câu gồm mấy chữ đầu:
Ít người được xem tấm bảng phong thần.
Bảng phong thần gì vậy? Bảng phong thần
“Phan học sĩ hết lòng mưu quốc”! Lối viết văn chữ Nôm xưa không có các loại
dấu, nếu ngày nay viết thì sẽ có hai ngoặc kép cho cụm từ “Phan học sĩ hết lòng
mưu quốc”(!), và cụm từ này là định ngữ của “Bảng phong thần”. Đó là lối phân
tích ngữ pháp hiện đại, thời cụ Đồ chưa có những thuật ngữ đó. Song ai cũng
hiểu các cụm từ như: “bảng phong thần vị quan hết lòng cứu dân”, “bảng phong
thần người vợ một lòng thủ tiết”, “bảng phong thần vị tướng dũng cảm trừ giặc”…
Và ở đây là bảng phong thần “Phan học sĩ hết lòng mưu quốc” (nối liền 10 chữ).
Bút pháp xuân thu rất kiệm lời. Nhưng cả
câu:
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần
“Phan học sĩ hết lòng mưu quốc” này, vì sao vậy? Vì làm gì có? Lúc này Phan học
sĩ là người có lỗi, bị triều đình nghị tội, bị vua khiển trách, có được phong
thần gì đâu mà có bảng để xem? Đến đời mấy ông vua bù nhìn Đồng Khánh, Khải
Định, Bảo Đại mới có. Như thế thì thái độ Nguyễn Đình Chiểu có tán thưởng Phan
Thanh Giản hay không? Cứ ngẫm nghĩ kỹ sẽ rõ.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ có ý thức
về sứ mệnh của văn chương:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
“bút pháp xuân thu” có tác dụng “khiến
người ngay phấn khích, khiến kẻ gian run sợ”, nên ông rất chú trọng, và vận
dụng vào văn chương rất đắc địa, rất cao tay, chứng tỏ cái tài với cái tâm của
ông đều đáng nêu gương thiên cổ.
_____________________
Chú thích:
** Cao
Đức Trường giải như sau: Trước khi chết, cụ Phan ghi và dặn các con cháu nhớ
rằng: Nếu có đề “triệu” (minh tinh) phải đề câu 11 chữ như sau:
ĐẠI
NAM HẢI NHAI LÃO THƠ SANH TÁNH PHAN CHI CỮU.
Ứng với
câu 11 chữ: QUỶ-KHỐC-LINH-THÍNH…QUỶ-KHỐC-LINH-THÍNH… QUỶ-KHỐC-LINH! Cũng như
trong phép làm nhà, dân gian thường dùng 4 chữ: SINH-LÃO-BỆNH-TỬ…
SINH-LÃO-BỆNH-TỬ… vậy. Trong phép viết “triệu” có quy tắc: “Nam LINH, Nữ THÍNH.
Bất dụng QỦY, KHỐC nhị tự”. Nghĩa là người chết là Nam thì chữ cuối cùng của
câu văn phải ứng vào chữ LINH; nếu là Nữ thì phải rơi vào chữ THÍNH. Không được
ứng với chữ QUỶ (nam), chữ KHỐC (nữ). Ở đây cụ Phan làm theo quy tắc chữ CỮU
cuối cùng tương ứng với chữ LINH.
Nhưng
“triệu” 9 chữ của cụ Đồ Chiểu là như sau:
HẢI
NHAI LÃO THƠ SANH TÁNH PHAN CHI CỮU
Ứng với
9 chữ: QUỶ-KHỐC-LINH-THÍNH…QUỶ-KHỐC-LINH-THÍNH… QUỶ!
Vậy
là chữ CỮU cuối cùng ứng đúng vào chữ QUỶ!
Cụ Đồ
không biết viết “triệu” chăng? Không! Đây là lời mắng nhiếc nặng nề! Ý cụ Đồ
xem như cụ Phan chết đi chỉ thành ma chứ không thể thành thần được!
** Soạn
giả lão thành, cụ Đặng Trần Nguyên giải thích: Cụ Đồ cắt đi hai chữ ĐẠI NAM hàm
ý: cụ Phan chết sẽ thành “quỷ không quê hương”, nước Nam không nhận con người
ấy; chớ không như Trần Bình Trọng còn được làm “quỷ nước Nam” ta.
**
“Tuyển tập Nguyễn Đình Chiểu” của giáo sư Ca Văn Thỉnh (Nhà xuất bản Văn nghệ -
2002) có nêu một cách hiểu khác về hai câu trong bài Văn tế:
… Trương
tướng quân còn cuộc nghĩa binh
… Phan
học sĩ hết lòng mưu quốc
“Còn”
đối với “hết”. Và hết ở đây là đã hết rồi. Chúng tôi thấy cách hiểu này cũng
thống nhất với cách hiểu của chúng tôi.
--------------
làm tay sai cho giặc là bán nước
Trả lờiXóa