-----------
Đôi nét về tác giả Nguyễn
Văn Thịnh:
Nhà văn Nguyễn Văn Thịnh,
quê Hà Nội, sinh năm 1940, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1965. Là một bác sĩ
trong quân đội, ông đã trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ tại chiến
trường đồng bằng sông Cửu Long (1965-1975) rồi sau đó là các cuộc chiến tranh
bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Năm 1988, ông chuyển sang ngành dân
y. Ông có nhiều bài viết đặc sắc liên quan đến lịch sử, đăng trên Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh và trang sachhiem.net. Ngoài ra ông còn có nhiều truyện ngắn,
truyện vừa, truyện ký, kịch nói đã được xuất bản và công diễn. Hai cuốn tiểu
thuyết của ông là Phút thăng hoa và Thời bi tráng được đánh giá là “đậm chất sử
thi về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trường kì cam go của dân tộc, thể hiện
trải nghiệm, tư tưởng và tài năng của nhà văn hình thành trong suốt cuộc đời
mình”.
------------
NGHIÊN CỨU - PHÊ BÌNH - TRAO ĐỔI
Phan Thanh Giản là người thế nào?
LTS: Bến Tre có nhiều nhân vật đáng là niềm tự hào chẳng những của
một xứ dừa mà còn là của cả nước ta về lòng TẬN TRUNG VỚI NƯỚC, TẬN HIẾU VỚI
DÂN như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thị Định, Ca Văn Thỉnh… Tuy
nhiên trên Tạp chí Văn nghệ Hàm Luông, số Xuân Bính Thân 2016 với bài “Xứ dừa –
nơi sinh ra những con người huyền thoại” của tác giả Đinh Hữu Quang đã đưa Phan
Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký sánh ngang những tên tuổi ấy là một việc làm lộn
sòng lịch sử. Chuyện này xưa rồi nhưng lâu lâu lại rộ lên theo dòng thời cuộc
nên “người yêu sử” xin lược lại tích cũ trình với bà con Bến Tre và bạn đọc gần
xa về hai nhân vật lịch sử đầy tai tiếng này.
Ảnh chụp tại Paris năm 1863 khi ông cầm đầu sứ bộ sang Pháp
điều
đình xin chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ – Ảnh: vi.wikipedia.org
Dù đã qua hơn thế kỷ, nước mất thì dân ta đã giành lại được. Chủ
quyền về tay dân ta rồi. Tội ác ngoại bang dù chồng chất cũng xếp sang một bên,
lấy hiếu hòa làm trọng. Con dân một nước dần quên đi mọi bất đồng, hợp quần
cùng nhau xây dựng cơ đồ. Tổ quốc như mẹ hiền rộng lòng tha thứ bao dung. Đào
xới quá khứ để ân oán hơn thua chỉ làm người sống bất yên, người nằm xuống
không sao nhắm mắt. Nhưng khi đã đặt ra phải bàn cho rành rẽ, nếu không sẽ biến
sai thành đúng, biến tội thành công, dẫn người đọc đi đến chỗ lẫn lộn phải
trái, trắng đen, không nhận rõ chính tà. Trong lúc giới thanh niên đang dấy lên
phong trào “Cùng thắp lên ngọn lửa yêu sử”, nhắc lại lời dặn của Bác Hồ: “Dân
ta phải biết sử ta / Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thế nhưng có một
thế lực từ sau khi nước nhà được thống nhất và hoàn toàn độc lập, dưới chiêu
bài “đổi mới” để xuyên tạc lịch sử, cứ âm mưu tái dựng những nhân vật từng hợp
tác đắc lực với ngoại bang làm hại giống nòi như những tấm gương lớn một lòng
vì nước vì dân!
Về Phan Thanh Giản, tác hại của việc ông làm, những tư liệu lịch
sử rất phong phú còn rành rành ra đó, đặc biệt thư tịch nằm trong các kho lưu
trữ ở mẫu quốc Pháp còn phong phú hơn trong các thư khố nước bản xứ một thời
vong quốc.
Có thể lược sử con người này như sau: Ông là người Lục tỉnh Nam
kỳ đầu tiên đỗ Tiến sỹ năm Bính Tuất (1826), được các vua tiền triều nhà Nguyễn
quan tâm ưu ái ngay từ lúc mới nhập triều. Làm đại quan hơn 40 năm (1826-1867)
qua ba đời vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Ngược tới vua Gia Long có thể
coi là thời kỳ hưng vượng nhất của vương triều Nguyễn – một nhà nước phong kiến
tập quyền độc lập, cai quản một quốc gia thống nhất từ Bắc vào Nam trong điều
kiện tương đối yên ổn không có họa ngoại xâm. Thế nhưng Phan Thanh Giản lại là
người có công đầu với nước Pháp trong việc dối vua lừa dân, tích cực triệt tiêu
lực lượng kháng chiến và tinh thần quật khởi của nhân dân ta. Ngay từ buổi đầu
đã đứng về phái chủ hòa dẫn tới chủ hàng. Từ việc lược quyền vua ký hàng ước
nhục nhã 1862 để mất ba tỉnh miền Đông đến việc thông đồng với giặc, năm 1867
mở rộng cửa thành Vĩnh Long dâng nốt ba tỉnh miền Tây cho giặc, coi như xóa
sạch công lao 300 năm các triều vua chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở phía Nam, đẩy
nhanh quá trình xóa quốc danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cái tội “mại quốc”
cả trong sử sách và bia miệng lưu truyền không là quá đáng và không sao xóa
được.
Tháng 8 năm 1963 đã có một hội nghị chuyên đề lớn với sự đồng
thuận cao của những nhà cách mạng và văn hóa, học giả lớn như Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn,
Đào Duy Anh, Ca Văn Thỉnh… đánh giá tổng quát: “Để mất nước, các vua nhà Nguyễn
là chính phạm, các triều thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng trong sự
kiện hai lần dâng thành giao đất cho giặc để mất cả Nam kỳ thì Phan là chính
phạm bởi tính bạc nhược, hèn nhát, thỏa hiệp với giặc. Chủ hòa thực chất là chủ
nghĩa đầu hàng – Đó là bản chất của giai cấp phong kiến cầm quyền lúc suy vi”.
Thiết nghĩ đó là sự đánh giá rất độ lượng, có thể tình đúng mức do yêu cầu lịch
sử lúc đó.
Bản chất của con người Phan Thanh Giản đã bị nhà đại ái quốc
Phan Bội Châu phanh phui: “Gan dê lợn mà mưu chuột cáo”! Thật vậy, chỉ sau bốn
năm quân Pháp với lực lượng ít ỏi đánh chiếm Trung kỳ không được đành quay vào
đánh chiếm mấy thành lũy phía Nam. Giữa lúc bị mắc kẹt ở mặt trận nam Trung
Hoa, tư lệnh quân viễn chinh Pháp Bonard dùng kế hoãn binh, cho người ra Huế
yêu cầu cử phái đoàn vào Nam hội nghị với yêu cầu bàn chuyện giảng hòa và Nam
triều bồi thường chiến phí!
Tự Đức là ông vua nhu nhược chỉ quẩn quanh với mấy vần thơ phú
và chăm lo việc xây lăng tẩm cho mình, ngay từ đầu đã chao đảo nghiêng về phái
chủ hòa nên khi quân Pháp yêu cầu nghị hòa thì vua sung cho Phan chức “Nghị hòa
chánh sứ” cùng Binh bộ thượng thư Lâm Duy Hiệp làm phó sứ.
Trước khi đi thương nghị, Phan-Lâm được vua Tự Đức ban ngự tửu
và tuyên chỉ: “Phàm mọi chi tiết như thù đáp giao ước về việc nghị hòa cần phải
cẩn thận. Thêm nữa nên cố gắng đạt đến việc đình chiến, ngõ hầu xứng đáng với
nhiệm vụ khanh được giao phó”. Nhà vua gửi gắm cả vận mệnh quốc gia với mệnh đế
vương của mình vào tay viên cận thần già tin cẩn: “Đất nước hôm nay đang bị dồn
vào ngõ cụt khó khăn. Muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi
trung tài năng tận tụy. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm
thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang san đang được giao phó vào tay
các khanh. Cầu mong cho các khanh được sớm trở về đầy vinh quang vì đã bảo vệ
danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ!”
Một tháng sau, bầy tôi trở về với bản hòa ước trong tay gồm 12
điều khoản, trong đó khoản 3 ghi rõ ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định,
Định Tường và đảo Côn Lôn được nhượng đứt cho nước Pháp cùng những điều khoản
bồi thường bất công rất chi là nhục nhã! Ngay lập tức nhân dân cả nước phẫn nộ
kết tội “Phan-Lâm mại quốc” và các phong trào yêu nước tiếp nhau nổi lên chống
Pháp đều coi việc làm của Phan như một vết nhơ lịch sử! Người phương Nam đương
thời để lại câu ca dao lưu truyền trong dân chúng: “Thà thua xuống láng xuống
bưng / Kẻo ra đầu giặc lỗi chung quần thần”. Vua Tự Đức than trời: “Ôi! Con dân
mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là
tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”!
Vậy là chính những người đương thời từ triều đình tới thần dân
đều đã công khai kết tội Phan-Lâm bán nước! Chẳng thể gọi là bị ép oan để bày
chuyện chiêu tuyết cho con người ấy.
Trước sự đã rồi, vua và triều thần đành vớt vát bằng việc giao
cho Phan cai quản Vĩnh Long và Lâm cai quản Khánh Thuận ở hai đầu giáp ranh ba
tỉnh miền Đông để có điều kiện giao tiếp với người Pháp ở Gia Định, ngõ hầu bắc
mối giao lưu thân thiện Đông-Tây, tiến tới có thể chuộc được lỗi lầm. Phan lại
được vua giao làm Chánh sứ qua Y-pha-nho và Pháp xin chuộc lại những gì đã mất
với lời ủy thác: “Đất ba tỉnh này là xương máu của dân, chuộc lại là chuộc tội
cho ta để cho dân thỏa lòng nguyện vọng”. Phan hứa mập mờ: “Nếu có thể đem đổi
ngói lấy vàng thì lúc nào thần cũng sẵn sàng”! Sau nửa năm chầu chực Pháp hoàng
Napoléon III, dâng nhiều cống vật mà vẫn trở về trắng tay và bộc lộ ra tâm địa
của viên quan bạc nhược trước sức mạnh của quân cướp nước: “Sự giàu có, mạnh mẽ
và các việc khôn khéo của nước Pháp nói ra không hết”! Thì ra với Phan Thanh
Giản “ngói” đây là mảnh đất ba trăm năm nhân dân ta cùng tiền triều nhà Nguyễn
đổ bao mồ hôi xương máu dày công khai phá và “vàng” đây là sự yên ổn để vua tôi
ngồi yên ghế vị mặc cho dân chúng lâm vào cảnh nô lệ điêu linh! Vì việc thương
lượng với Pháp xin hồi lại đất không thành Phan Thanh Giản mới bị vua Tự Đức
phạt tội “cách lưu”!
Năm 1865, trước tình hình nguy ngập, vua Tự Đức phục chức cho
Phan Thanh Giản và sung Kinh lược sứ trấn ba tỉnh miền Tây với lời căn dặn:
“Không khuất phục tình hình một cách thụ động!”. Suốt mấy năm được giao trấn
thủ tiền phòng trong tình thế thịt treo trước miệng hổ vuốt mèo mà Phan không
tỏ ra ăn năn chuộc lỗi tìm cách gỡ ra thế bí, trái lại tích cực hỗ trợ cho quân
chiếm đóng mau chóng bình định mảnh đất phương Nam bằng những việc làm mà anh linh
tiên tổ không thể dung tha như thẳng tay đàn áp và khống chế những thủ lĩnh
nghĩa quân bất phục tùng thi hành hiệp ước! Một mặt chỉ điểm cho giặc về những
người yêu nước, một mặt dâng sớ về triều xin trị tội, thuyên chuyển khỏi nơi cứ
địa hoặc cách chức những chủ soái nghĩa quân như Trương Định, Trần Văn Thành,
Trịnh Quang Nghị, Võ Duy Dương… đồng thời bắn tin cho giặc: “Bản chức sẽ không
ngăn cản sự xâm lược bằng một sự kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích” và nói
hoạch toẹt ra: “Nếu quý quốc lấn tới, quả nhân không chống cự”! Đến khi thấy
đoàn tầu thuyền nhà binh Pháp đậu kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá
kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ” và tướng giặc cho người mang thơ nói toạc ra
ý họ “quyết định chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ vì lý do các quan quân triều
đình ở đây ủng hộ phong trào chống Pháp”. Phan ra lệnh không kháng cự và dẫn
đám thuộc hạ xuống tầu trách yêu giặc “vin cớ nhỏ mọn mà làm tổn thương đại
nghĩa” (!) và ngọt nhạt đẩy đưa: “Tôi có quyền giữ đất chớ không có quyền giao
đất. Xin cho tôi hỏi lại ý kiến triều đình”! Lũ sài lang thừa dịp kéo vào chiếm
thành mà không tốn một viên đạn! Sau đó quan Khâm sai viết công thư – thực chất
là thư dụ hàng như ông đã từng làm mấy lần bất thành với Trương Định, gửi các
quan tướng giữ thành An Giang và Hà Tiên với lời lẽ không tìm thấy ở đâu trong
lịch sử: “… Người nào thuận theo lòng trời thì còn, người nào nghịch theo lòng
trời thì chết mất. Chúng ta yếu ớt không thể chống nổi người Phú-lang-sa. Các
quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm và giao thành trì khỏi
chống lại”! Ông ta biện lẽ: “Bản chức tùy theo thiên ý mà tránh đỡ giùm dân đen
tai họa rớt trên đầu họ” và khuyên dụ dân hãy tin vào giặc vì “những người này
chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi”! Đó là sự dối trời lừa dân có một
không hai. Thế là chỉ trong năm ngày cả ba tỉnh thành hừng hực khí thế chống
ngoại xâm bỗng lọt vào tay giặc! Chẳng những Phan đã ngoan ngoãn giao thành,
lại còn lệnh cho thuộc hạ mở rộng cửa kho và ngân khố lấy lúa gạo và tiền nộp
thêm cho quân phản phúc gọi là thanh toán bồi thường năm năm chiến phí theo cái
gọi là hòa ước 1862!
Bốn tháng sau, vua Tự Đức ra chỉ dụ giao cả cho Tôn nhân Phủ và
đình thần xem xét công tội để bàn định việc xử trí. Bản án ngày 17/4/1868 triều
thần nghị xử rằng: “Viên Khâm lược sứ với trách nhiệm giữ gìn đất đai mà lại
ươn hèn đến thế, sẽ phải phân biệt xử trị để răn khí tiết bề tôi và để nhân tâm
có bề phấn chấn mới phải. Trước hết cách chức và truy thâu lại phẩm hàm và ghép
vào tội xử trảm giam hậu”. Cùng năm đó vua Tự Đức bút phê “truy đoạt chức tước,
phẩm hàm và đục bia Tiến sỹ, để lại muôn đời cái án trảm hậu” với Phan Thanh
Giản!
Tuy nhiên bên sự đánh giá chính thống như thế vẫn có những thế
lực bênh vực thậm chí còn bốc thơm đơm đặt đủ điều cho nên con người ông, việc
làm của ông, cái chết của ông vẫn là đề tài cho hậu thế tranh cãi dài dài. Vậy
những ý kiến trái chiều kia có tự bao giờ và xuất phát từ đâu?
Thật ra khi người Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam thì lực lượng
họ không phải là quá mạnh, nội tình vương triều Paris cũng lắm chuyện rối ren.
Thế nhưng bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó cực kỳ bê bối. Triều đình thì hủ bại.
Dù khí thế yêu nước của dân chúng rất cao nhưng không có chỗ dựa và không hợp
thành một liên minh chặt chẽ. Trong khi bộ máy chiến tranh của Pháp dày dặn
kinh nghiệm đối phó, dưới bóng cây Thánh giá càng dễ lợi dụng những yếu tố xã
hội và con người ở các quốc gia xa xôi lạc hậu thì những người như Phan Thanh
Giản là tác nhân thúc đẩy mau chóng quá trình mất nước, tất nhiên lọt vào tầm
ngắm để đội quân viễn chinh ấy khai thác và điều khiển bằng đủ những mưu mô
thâm trầm xảo quyệt. Cuộc chiến xâm lược xứ An Nam xa xôi không được triều đình
Paris tập trung ủng hộ nhưng lại sớm thu được thắng lợi trọn vẹn mà ít hao
người tốn của. Đương nhiên những người như Phan được coi như có công đầu với
đội quân viễn chinh xâm lược Pháp. Khi Phan còn sống cũng như khi chết đều được
Bộ chỉ huy quân viễn chinh chăm sóc chu đáo tận tình, kèm thư gửi tới gia đình
với những lời chia buồn thống thiết: “Nơi triều đình trừ một mình ngài thấy rõ
đâu là ích nước lợi dân… Người Pháp quốc hằng bền một lòng tôn trọng quan lớn
Phan Thanh Giản và gia đình của ngài. Bổn trấn hứa sẽ hết lòng bảo bọc cho con
cháu ngài hoặc muốn ra mà giúp việc nhà nước hay là muốn tước lộc chi thì bổn
trấn cũng vui lòng ban ơn theo như ý”. Và người Pháp đã làm đúng như lời hứa.
Ngay cả khi hai con ông là Phan Liêm và Phan Tôn có cầm súng chống Pháp một
thời gian nhưng thua trận và bị bắt, người Pháp cũng rộng lòng tha và giao cho
triều đình An Nam trọng dụng. Tất nhiên lại cầm binh đi đánh những người Việt
Nam “nổi loạn”! Tên tuổi ba cha con họ Phan đều được nhà nước thực dân – tất
nhiên là cả chính quyền bản xứ lệ thuộc “bảo tiết tôn vinh” như những tấm gương
về lòng yêu nước thương nòi! Dù cho dân chúng bất bình nhưng chính sử triều
Nguyễn bù nhìn chẳng dám nói đó là sự sỉ nhục đối với lịch sử nước nhà! Trải
hàng trăm năm thân phận “thuộc quốc phiên bang” mấy ai được săm soi góc cạnh
ngọn ngành? Sự ngộ nhận đã thành nếp nghĩ, chỉnh sửa lại không là điều dễ! Phải
chăng đó là tàn dư của văn hóa thực dân?
Vậy thì ai đã phục chức cho Phan? Tự Đức chết năm 1883, sau thời
kỳ u ám “tứ nguyệt tam ngôi”, rồi xảy ra sự kiện Hàm Nghi. Dưới sự bảo trợ của
người Pháp, hoàng tử Chánh Mông lên ngôi với đế hiệu Đồng Khánh. Tân vương vốn
sính Tây được coi như một “sản phẩm Pháp tại Việt Nam”. Quả nhiên Đồng Khánh là
ông vua đầu tiên công nhận nền bảo hộ của nhà nước Đại Pháp. Để được lòng “nước
mẹ”, tân vương ra sắc chỉ khôi phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học sỹ cho Phan Thanh
Giản sau những lời khen: “Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái Sơn, văn chương
ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một đời”. Tất nhiên bia
được dựng lại sau hai thập niên bị đạp đổ! Đồng Khánh làm vua được ba năm thì
chết. Qua hai triều vua Thành Thái và Duy Tân, người Pháp không “dụ” được. Năm
1916, sau cuộc nổi dậy do Hội “Việt Nam Quang Phục” phát động ở năm tỉnh Trung
kỳ (Nam, Ngãi, Huế, Trị, Bình) thất bại, bốn nhà chí sỹ là Trần Cao Vân, Thái
Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị xử chém, vua Duy Tân, Thành Thái
cùng số phận với vua Hàm Nghi, bị đi đày biệt xứ. Chính quyền bảo hộ đưa Khải
Định là con vua Đồng Khánh lên ngôi. Năm 1924, vua Khải Định sắc cho quan dân
tỉnh Thủ Dầu Một thờ phụng Phan công như “thần hộ quốc an dân”, ý để thưởng
công đã giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp! Kế đến năm 1933, con Khải Định là vua
Bảo Đại cũng sắc cho quan dân tỉnh Vĩnh Long thờ phụng Phan công nội dung như
thế, ý để thưởng công đã giao nốt ba tỉnh miền Tây cho Pháp! Việc làm ấy có
nghĩa là triều Nguyễn hài lòng đã hoàn tất sứ mạng lịch sử chí ít cũng là giao
toàn bộ xứ Nam kỳ vào tay người Pháp! Vậy thì thực chất việc phục chức và tôn
vinh Phan Thanh Giản chính là ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Việc chiêu tuyết và
khôi phục chức sắc cho Phan được ba triều vua tồi tệ nhất trong lịch sử 13 đời
vua triều Nguyễn đã bị chính Hội nghị sử học năm 2008 loại ra ngoài vòng lịch
sử thì mọi việc chiêu tuyết cho Phan Thanh Giản vào mọi thời điểm đương nhiên
nào có giá trị gì.
Thực ra càng xem xét kỹ tư liệu lịch sử càng nhận ra con người
này rất phức tạp và có nhiều khuất tất.
Phan là người không có bản lĩnh cầm quân: Triều thần đã tổng
luận: Về tài thì hơi kém! Lúc đi đánh giặc thường bỏ chạy. Từng năm lần bị
giáng cấp, hai lần bị cách lưu. Vậy khi gặp giặc mạnh chưa đánh đã chủ hòa là
điều không lạ.
Nếu bạn đọc tiếp cận tư liệu lưu trong thư khố Pháp, xem thư
Phan gửi các quan tướng quân đội viễn chinh như Hải quân Trung tướng Bonard, Đề
đốc Rigault De Genouilly, Đề đốc Lagrandière… thấy rõ đó là con người phản
phúc, không khác chi là “tay trong” của giặc! Hẳn không còn ai bốc thơm Phan về
lòng trung quân ái quốc!
Phan có là người liêm chính thật không? Ông Tiến sỹ Phan Hiển
Đạo làm Đốc học tỉnh Định Tường có ra hợp tác với giặc vì mơ hồ tin vào “tình
thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương” của quan trên. Nhưng sau nhận ra
mình lầm lỡ nên lánh qua tỉnh Vĩnh Long (vì Định Tường không còn thuộc Nam
triều nữa). Ông đưa thơ xin diện kiến trình rõ sự tình, bị Phan sổ toẹt với lời
phê độc: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã bị thất thân, sao cho
là trinh được). Ông Tiến sỹ Đạo hổ ngươi trở về quê Mỹ Tho, viết cáo trạng tạ
lỗi với dân chúng rồi uống thuốc độc mà chết! Trong khi quan Khâm lược giấu kín
nỗi lòng tới lúc lâm chung mới tỏ chân tình với viên quan giặc Ansart rằng ông
dành dụm được mấy ngàn quan (1.000 quan lúc bấy giờ tương đương với 700 lạng
bạc) và mong muốn ký thác cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn học
thành tài! Vậy Phan có thanh bần như đời ca tụng?
Cho đến cái chết của quan Khâm sai đại thần thật ra cũng không
bi tráng như nhiều người lầm tưởng. Ông ta biết khi đặt bút ký chấp nhận yêu
sách của giặc là xóa sạch đi công lao 300 năm khai phá của các bậc tiên vương
tiên chúa thật “đáng tội chết” rồi. Dù nói rằng “lá cờ ba sắc không thể phất
phới bay trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (!) nhưng không
như Hoàng Diệu treo cổ chết ngay trong thành Hà Nội, Võ Duy Ninh tự thương chết
ngay trước thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương quyết chết theo Hà thành thất thủ.
Trái lại, Phan thủng thẳng ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh
Long, tỉnh táo sắp xếp mọi việc chu đáo. Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức:
“Việc cõi Nam kỳ một chốc đến thế này, không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tội đáng
chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho Quân phụ. Đức Hoàng thượng
rộng xét xưa nay, biết rõ trị loạn…” và gởi thư cho các tướng giặc để trần tình
với lời lẽ rất chi là hoan hỷ. Ông cũng ngỏ lòng với cha Marc là muốn theo đạo
Thiên Chúa! Ông căn dặn các con hãy qui phục nước Pháp, sống hòa bình với họ và
chăm chỉ cần lao, ráng học hỏi cho bằng người Tây Âu để phò vua giúp nước may
ra sau này làm vẻ vang cho Tổ quốc! Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt
tin. Biết rằng tội kia không thoát chết! Gần một tháng sau thì ông “tuyệt cốc”
(nhịn ăn). Nửa tháng không chết, ông uống á phiện pha với dấm thanh. Trong thời
gian ấy nhiều quan lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc ông một mực từ chối.
Theo thơ tường trình của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham mưu trưởng kể về
những giờ cuối đời của ông quan này: “Lúc các ông quan (Nam triều) còn lại ở
Vĩnh Long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng tôi đã phải gần
như ép ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được
một chút giải độc. Nhưng ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi và chỉ còn
có mình ông với chúng tôi (ba sỹ quan Pháp) thì ông đã thuận mọi điều. Hai lần
ông hỏi cha Marc: Tôi có thoát được chăng? Than ôi, khi đó đã quá muộn”! Cái
chết nào cũng bi. Chết bình thường thì thương. Chết vì nghĩa thì tráng. Chết có
toan tính thì hài!
Có người bày đặt chuyện cụ Đồ Chiểu đã làm thơ khóc thương ông
quan già họ Phan này rất chi là thống thiết. Tuần báo Văn nghệ TP.HCM số 55,
Thứ Năm ngày 26/3/2009, nhà giáo Phạm Thị Hảo, giảng viên môn Văn học cổ Trung
Quốc tại Đại học Sư phạm TP.HCM đã có bài: “Viết về Phan Thanh Giản, nhà thơ
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng bút pháp Xuân Thu”, giảng giải rành mạch ý tứ thâm
sâu của cách “đối” thơ Hán-Nôm là như thế nào. Những câu thơ ý tại ngôn ngoại,
tưởng khen mà chê, tưởng thương mà giận, tưởng bi mà hài. Tấm liễn Phan nhân để
lại có 11 chữ nhưng cụ Đồ cố ý ghi “Minh tinh chín chữ lòng son tạc” đã như lời
mắng nhiếc nặng nề: Phan chết đi chỉ thành quỷ chứ không thể thành thần được!
Tự Đức đã giãi lòng trong thơ: “Khí dân triều trữ cữu – Mại quốc
thế gian bình – Sử ngã chung thân điếm – Hà nhan nhập miếu đình” (Bỏ dân ta
nhận lỗi – Bán nước thế gian bình – Mai này ta nằm xuống – Mặt nào nhìn tổ
tông)! Bởi nhà vua gửi vàng không chọn mặt! Sao đại sự cứ dựa vào kẻ “mại quốc
cầu vinh”?! Đấy là mối oan nghiệt của người cầm quyền quốc gia tối thượng khi
đã đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc dưới cái bệ ngọc ngai vàng thì không thể
nhận ra kẻ ngay gian, chính tà, sẽ là rước họa cho mình, cho nước!
Trong bài viết của mình, tác giả Đinh Hữu Quang trích dẫn lời
danh nhân Hoàng Bình Trọng: “Dùng Chí luyện Thơ, dùng Thơ luyện Chí/ Chí truyền
Thơ lay động đất trời”, khác nào sự mai mỉa với Phan đại nhân thi sỹ?!
Đừng để bị lôi kéo vào ý đồ thâm hiểm của một thế lực bất minh.
Họ không từ thủ đoạn nào tô son trát phấn bốc thơm con người ấy, kể cả dưới
hình thức văn học – nghệ thuật để đánh lạc hướng dư luận, tạo ra những cái gọi
là “góc khuất đáng thương” làm cho công chúng từ cảm thương đến có cảm tình mà
dễ dãi quên đi những tỳ vết đã hằn sâu trong lịch sử.
Vào giữa thế kỷ XIX, lũ giặc mắt xanh mũi lõ vượt trùng dương
nửa vòng trái đất trên chục chiếc tàu đồng với mấy ngàn quân qua cái xứ sở
nhiệt đới khắc nghiệt này, vũ khí là mấy khẩu đại bác cổ lỗ, vài ngàn tay súng
kíp chọi với đội quân nón mê chân đất, gươm giáo dao gậy cầm tay mà có cả rừng
người sẵn sàng chết không để nước mất vào tay giặc. Vậy mà có những ông vua,
ông quan run rẩy không dám cầm gươm, chỉ biết nhìn trước ngó sau mà đái trong
quần thì làm sao không mất nước! Hãy nhìn sức giặc hiện nay: Chỉ một bước chân
đã vào tận ngõ. Sân trước vườn sau, trên rừng dưới biển, ba bề bốn bên đâu đâu
cũng thấy lũ đầu trâu mặt ngựa. Toàn bộ đất đai, núi rừng, biển đảo của ta đều
nằm trong tầm phủ gần xa của đủ các loại vũ khí tối tân. Tàu thuyền đặc biển.
Máy bay đầy trời. Điều này hiển nhiên ai cũng biết. Thế mà không ít người nhân
danh cái gọi là “đổi mới” thi nhau trổ tài điêu toa quay quắt cố dựng dậy một
lũ vua quan hèn nhát, bạc nhược, phản phúc, dối trời lừa dân như Phan Thanh
Giản nhằm dạy lớp trẻ điều gì? Trong khi nước non đang cần những con người
trung dũng!
Những ngày đầu xuân Bính Thân 2016
Nguyễn Văn Thịnh
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 392
Lũ lật sử luôn cố tình muốn lớp trẻ hiểu sai về sự thật lịch sử
Trả lờiXóa