Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Bài thơ Dương Phi cố lý của Nguyễn Du (và Đặng Thị Huệ)

 

 

Nhân vật Dương Quý Phi bên Tàu và Vương phi Đặng Thị Huệ bên ta có nhiều điểm tương đồng:

Cả hai đều đẹp, không chỉ đẹp mà còn đẹp quá, nên "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen".

Dương Quý Phi nhập cung với thân phận là một "nữ đạo sĩ" (hầu việc cầu cúng)  được vua Tàu Đường Huyền Tông yêu dấu mà phong làm Quý phi.

Đặng Thị Huệ thì vốn là một nữ tỳ được chúa Trịnh Sâm sủng ái mà phong làm Tuyên phi.

Quý Phi bị Tàu coi là mầm mống sinh ra đại loạn, gây tai họa cho nhà Đường.

Tuyên Phi (Đặng Thị Huệ) thì  bị coi là nguyên nhân của nhiều biến cố thời vua Lê chúa Trịnh, dẫn đến cơ đồ hơn hai trăm năm của nhà Trịnh sụp đổ.

Dương Quý Phi có anh trai là Dương Quốc Trung, còn Đặng Tuyên Phi có em trai là Đặng Mậu Lân. Trung và Lân giống nhau ở chỗ đều bị đánh giá là cậy thế người nhà vua chúa làm những việc vô đạo, xa hoa, càn rỡ, gây ra nạn “kiêu binh”, làm tổn hại tới vận mệnh triều đình.

Kết cục Dương Quý Phi bị buộc phải thắt cổ, còn Đặng Thị Huệ thì tự uống thuốc độc mà chết.

Bài thơ Dương Phi Cố Lý (Quê cũ Dương Quý Phi), là bài số 44 trong tập Bắc hành tạp lục của đại thi hào Nguyễn Du. Thời điểm sáng tác bài thơ được cho là vào năm 1789, khi Nguyễn Du nhàn du bên Tàu trong các năm 1787-1790.

Khi Nguyễn Du viết bài thơ này, thì Đặng Thị Huệ mới chết được 5 năm (1784), còn Dương Quý Phi đã chết cách đó hơn 1.000 năm (756).

Dương Phi cố lý

Phiên âm:

Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,

Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.

Tự thị cử triều không lập trượng,

Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.

Tiêu tiêu Nam nội bồng cao biến,

Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình,

Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,

Đông phong thành hạ bất thăng tình

Dịch:

Bờ hoa rực rỡ núi vờn mây

Thấy bảo Dương phi sinh đất này

Một thủa triều đình toàn tượng đứng

Ngàn năm người ngọc chịu tai bay

Lặng ngắt Tây Giao gò hóa phẳng

Đìu hiu Nam nội cỏ mọc dày

Cánh hồng tàn rụng tìm đâu thấy?

Dưới thành duy có gió Đông hay...

Khác với “dư luận xã hội” bấy giờ (và cả bây giờ), cụ Tiên Điền không “ném đá” Dương Quý Phi mà chỉ rõ, nhà Đường mất nước là do đám quan lại triều đình quanh năm ăn hại nói khoác, đến lúc cần hành động thì hóa ra toàn là tượng đá, sao lại đổ oan cho sắc đẹp làm nghiêng thành?

Không rõ khi viết bài thơ này, cụ Tiên Điền có liên tưởng đến thân phận Đặng Thị Huệ chăng?

Cũng có thể lắm chứ, vì:

"Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung..."


---------------------

Thêm:

Nguyễn Du có ông anh là Nguyễn Khản làm quan dưới trướng Trịnh Sâm, lại thân thiết với Trịnh Sâm và Đặng Tuyên phi như người nhà. Phạm Đình Hồ, trong Vũ trung tùy bút, viết:

"Khi chúa Trịnh Thịnh vương (Trịnh Sâm) còn ở Lương quốc phủ, thì ông Nguyễn Khản làm Phiên liêu, hàng ngày được vào hầu yến trong nội cung Thịnh vương, thân thiết như bạn áo vải. Năm Đinh Hợi (1767) thăng cho ông Khản làm Tri phiên liêu kiêm quản Nhất hùng cơ, tước Kiều nhạc hầu. Khi ấy, trong nước bình yên vô sự. Thịnh vương lại thích đi ngự chơi, lúc đi thưởng hoa, lúc đi câu cá, thế nào cũng có ông Nguyễn Khản cùng đi. Khi trở về, thì ông lại mặc áo chẽn tay hẹp ra vào nơi cung cấm. Nhà chúa đặc ban cho ông được đi lại ra vào không khác gì quan nội giám. Khi chúa Trịnh thưởng ca, thường sai Nguyễn Khản ngồi hầu. Ông được đội khăn lương, mặc thường phục, ngồi ngay bên cạnh, cầm chầu điểm hát. Những ngày rỗi, chúa Trịnh lên ngự chơi Hồ Tây, kẻ thị thần vệ sĩ bày hàng quanh cả bốn mặt hồ, nhà chúa chỉ cùng với bà Đặng Tuyên phi ngồi trên thuyền, mà Nguyễn Khản thì ngồi hầu ngang trước mặt, cùng thưởng lãm, cười nói, không khác gì bạn bè, người nhà".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét