Trong Mấy lời của tác giả mở đầu cuốn
"Bên thắng cuộc" Huy Đức kể: "Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết
mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn
nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”", và mãi đến những năm 1983 vào Sài
Gòn mới "bắt đầu biết đến rạp
chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc".
Khác
với Huy Đức, mình không cần phải vào miền Nam mới biết đến rạp chiếu
bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Thực tế có vẻ ngược lại, cũng năm
1983, mình tham gia xây dựng hai nhà hát ở phía Nam, đó là rạp hát
Hộ Phòng (Giá Rai) và rạp hát Trần Văn Thời ở tỉnh Minh Hải. Đó là các rạp hát
đầu tiên nằm ở các trung tâm thị trấn này.
Cũng
trong lời mở đầu này, Huy Đức đã giới thiệu: "Đây là công
trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật" và "Lịch
sử cần được biết như nó đã từng xảy ra". Nhưng những dòng Huy Đức viết
ra không phải là toàn bộ cái "đã từng xảy ra", và càng không thể là
lịch sử. Nếu Huy Đức có mô tả sự thật, thì đó cũng chỉ là một mẩu sự thật của
riêng Huy Đức mà thôi.
Thế
nhưng, đoạn văn mà Huy Đức kể lể ở trên có thể làm cho người đọc ngộ nhận (hay ngộ độc)
rằng ngoài Sài Gòn (của "Bên thua cuộc") thì ở miền Bắc, nơi Huy Đức sinh ra và trưởng thành, không có "rạp
chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc" và âm nhạc thì "chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ
Bác”.
Vậy
nên dưới đây, mình sẽ kể những chuyện xem gì, nghe gì, ở đâu, trong "một
thời đạn bom, một thời hòa bình" ấy. Đó cũng không phải là toàn bộ sự thật
và vẫn chỉ là một mẩu nhỏ của cái "đã từng xảy ra" qua trải nghiệm của một cá nhân.
Mình
không biết quê Huy Đức có các rạp hát, rạp chiếu bóng (và nhạc viện nữa cơ à?)
hay không, nhưng hai nơi mình từng ở là Thị xã Ninh Bình và thành phố Nam Định
thì chắc chắn đều đã có các rạp hát, rạp chiếu phim.
Thị
xã Ninh Bình bị bom Mỹ phá sạch, kể cả nhà thờ chứ đừng nói tới rạp
hát, rạp xi nê. (Lạc đề một tý, mình vẫn tiếc cái nhà thờ đổ do bom Mỹ này nằm
bên lối vào nhà ga cũ. Nó có một vẻ đẹp hoang tàn tuyệt phẩm, tưởng như bom đạn
vô tình mà cũng biết tạo ra cái đẹp).
Ở Ninh Bình, khoảng
năm 1973-75, nhà hát mới được xây dựng trên đường bên bờ Sông Vân. Mình vẫn
được bác Mạc Kính Dương (bấy giờ là Trưởng Ty Văn Hóa) cho giấy mời vào xem
Đoàn chèo Ninh Bình hay Đoàn kịch nói Ninh Bình biểu diễn ở đây. Năm ngoái (2024), rạp này được phá đi và xây lại với kiến trúc hiện đại (và độc đáo) hơn, mang tên Nhà hát Phạm
Thị Trân, người được suy tôn là "bà tổ nghề sân khấu của Việt Nam".
Cách
thị xã Ninh Bình khoảng 30km thì đến giờ vẫn còn rạp Kim Mâu 800 chỗ, thuộc
huyện Kim Sơn. Rạp này được xây dựng khoảng năm 1960, không bị bom Mỹ phá, tên
rạp mang đậm dấu ấn kết nghĩa Bắc-Nam: Kim sơn-Cà Mâu.
Năm
1976, hợp nhất tỉnh, nhà mình chuyển sang Nam Định thì thấy còn khá nhiều rạp
tồn tại qua các đợt chiến tranh.
Thành
phố Nam Định nhỏ, chu vi đi xe đạp khoảng chưa tới 30 phút đã hết nhưng lúc bấy
giờ có khá nhiều rạp chiếu phim như Văn Hoa, Hoa Đô, Kim Đồng và rạp Tháng Tám
(phim) nằm cạnh rạp Bình Minh (Cải lương) trên đường Trần Hưng Đạo. Nhà hát 3-2 (đa năng) thì nằm bên hồ Vị Xuyên...
Nam
Định có các Đoàn Kịch nói, Đoàn chèo và Đoàn Cải lương. Chú Văn Phúc, kép chính
của đoàn Cải lương Nam định cũng thi thoảng cho mình giấy mời. Nhà chú
chung vách lửng với nhà mình (bên trên thông nhau), nên khi bà cụ Phúc (mẹ
chú) dạy hát bên nhà kia - bà là nghệ nhân nổi tiếng về hát chèo (dòng cụ Trùm
Thịnh) và có nhiều học trò ở Hà Nội về học - thì bên này cũng được học ké. Con
trai chú Phúc - em Đại Phong sau cũng trở thành Nghệ sĩ cải lương.
Ở
Nam Định (và cả Hà Nội) còn có một cái thú về văn hóa nữa là đi xem triển lãm
tranh, tượng không mất tiền, xem thì mê mẩn quên đường về nhưng nhìn thấy giá
là... muốn ngất.
Đó
là chuyện xem, nghe gì, ở đâu, từ khi Mỹ ngưng ném bom miền Bắc, còn trong
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ thì thế nào?
Sau
sự kiện 5- 8-1965, Johnson ném bom, nhà mình sơ tán về vùng nông thôn cách thị
xã Ninh Bình khoảng 5km. Nhớ lúc ấy mới học vỡ lòng, đã được đi theo các anh ở nơi sơ tán xem phim rồi.
Qua một cái cầu gỗ, sợ quá phải bò, nên có ông anh cõng qua.
Sau
lớn thêm chút thì tự đi, không có tiền thì "rúc rào". Phim
"Những kẻ báo thù không thể bị bắt" (Liên Xô) được trẻ con xuyên tạc
ngay thành "Những kẻ rúc rào không thể bị bắt".
Thực
ra chẳng có rào nào cả, người ta chỉ chăng sợi dây thừng quanh khuôn viên bãi chiếu.
Trẻ con không muốn "rúc rào" thì bày ra bộ mặt nịnh nọt, xin anh
soát vé cho vào cũng có khi được. Thời kỳ này mình xem phim Nổi gió chắc phải
đến 2 lần, nội dung thì không nhớ (vì còn bé quá) chứ các nghệ sĩ Thế Anh
(trung úy Phương) và Trà Giang thì nhớ mặt luôn.
Cũng có khi không vào bãi, kiếm chỗ đứng ngoài xem ngược từ phía mặt sau
của màn ảnh. Sau này đến lúc loại phim màn ảnh rộng ra đời thì người ta mới che
kín phía sau. Phim phổ biến hồi ấy là các phim của Liên Xô (Người thứ 41, Bài
ca người lính, Đàn sếu bay, Vua Sultan...); Trung Quốc (Bạch mao nữ, Rừng thẳm
tuyết dày, Mưu chiếm núi Uy Hổ, Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt tinh...), thậm
chí còn có cả phim Đức, Ba Lan hay Rumani (Tượng đồng người thứ sáu).
Ngoài
các đội chiếu bóng lưu động, thì Ninh Bình còn có Đoàn Ca múa, Đoàn Kịch nói và
Đoàn Chèo, cũng diễn lưu động ngoài bãi khi máy bay Mỹ ngưng ném bom. Kịch thì
nhớ vở "Tiền tuyến gọi"..., chèo thì nhớ vở "Trần Quốc Toản ra
quân"... mà bà con nông dân "chế" thành "Trần Quốc Toản xe
phân". Thời kỳ này mình toàn xem bãi, không có rạp. Rạp bom Mỹ phá rồi.
Trách ai? Trách đất nước à?
Thế
còn nghe gì? Liệu có phải chỉ có "Đêm Trường Sơn nhớ Bác"?
Tin
hay không thì tùy, mình bắt đầu quan tâm đến nhạc giao hưởng từ những năm 1970-1971, ở nơi sơ
tán, giữa những đợt ném bom của Johnson và Nixon.
Có
lẽ ít người còn nhớ là trong những năm tháng ấy, mỗi sáng Chủ nhật, tầm từ 8-9h, Đài Tiếng nói Việt Nam dành ra khoảng một tiếng đồng hồ phát chương
trình Giới thiệu các tác phẩm âm nhạc nước ngoài.
Chương
trình này do nhạc sĩ Hồ Bắc thực hiện. Ông trực tiếp giới thiệu, phân tích, dẫn dắt người
nghe và bình giải một cách có hệ thống những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng của các
nhà soạn nhạc cổ điển như Tchaikovsky, Chopin, Beethoven, Moza, Shostakovich...
Ngu như mình dần dần cũng hiểu được đôi chút.
Gây
ấn tượng với mình nhất là Bản Giao hưởng số 5 (Định mệnh) của Beethoven và Hồ
Thiên nga của Tchaikovsky. Khi phân tích từng chương, từng đoạn ông nói say mê
và xúc động như nhập đồng. Sau mới biết, con gái Hồ Bắc mang tên Hồ Thiên Nga.
Đến
khi Nixon ném bom Hải Phòng, Hà Nội (12 ngày đêm) thì chương trình này ngưng.
Nhưng, một điều đặc biệt là ngay sáng sớm ngày đầu tiên của hòa bình (sau khi ký hiệp
định Paris) thì Đài Tiếng nói Việt Nam lại phát chương II Concerto piano số 5 của
Beethoven.
Ở
quê Huy Đức, Nghệ An hay Hà Tĩnh cũng đều nghe được, nếu muốn. Nhưng cũng có
thể lúc ấy Huy Đức còn bé quá, không để ý.
Nhạc
viện thì Nam Định, Ninh Bình không có, quê Huy Đức chắc cũng không có. Hà Nội
dĩ nhiên là có, Sài Gòn cũng có (và còn có rất nhiều Viện uốn tóc).
Vậy
nên mình sẽ kể một chút về Nhạc viện Hà Nội thời bom đạn, và chờ Huy Đức kể về
Nhạc viện của "bên thua cuộc".
Nhạc viện Hà Nội chính là cái tên ở thời sơ tán, sau đổi thành Học viên âm nhạc Quốc gia
Việt Nam, nhưng người ta vẫn gọi một cách dân dã là Trường Nhạc. Anh Minh, đi bộ
đội về rồi học Đại học cùng lớp mình là con một cụ đã từng lãnh đạo nơi đây,
anh nổi tiếng "trùm sò" nhưng lại hay cho mình đọc ké sách, truyện và "ép" mình dùng xà phòng Camay của anh (một thứ xa xỉ phẩm thời bao cấp) để tắm.
Mỹ
ném bom miền Bắc, Nhạc viện Hà Nội cũng hai lần phải đi sơ tán. Thời Johnson
ném bom (1965), trường Nhạc về xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng và thời Nixon ném bom (1971) lại
sơ tán tiếp về huyện Hiệp Hòa (Hà Bắc).
Trong
những năm tháng gian nan ấy thì thầy trò Trường Nhạc vẫn cứ dạy và học say mê.
Tiếng đàn, tiếng hát vẫn cất lên ngay ở nơi bụi chuối, bờ tre, cạnh đàn gà, con
trâu hay đống rơm. Những đêm không có đèn, thầy trò họ vẫn miệt mài học tập. Có báo động thì
chui xuống hầm, hết báo động lại chui ra học tiếp.
Ngoài
dạy và tập đàn, các thầy còn kiêm nhiệm việc đào hầm để tránh máy bay, tối đến
tự học ngoại ngữ dưới ánh đèn dầu. Chủ nhật thầy cô vẫn tranh thủ đạp xe 70 km
về Hà Nội. Thỉnh thoảng họ tổ chức biểu diễn ở sân kho hay đến tận các trận địa
pháo cao xạ. Và đi tuyển sinh các nơi, kể cả ở tận Nghệ An, chỉ bằng xe đạp.
Nhưng dẫu khó khăn gian khổ đến mấy, thì cũng chính từ cái nôi nơi sơ tán này đã ươm mầm và phát hiện một nhân tài kiệt xuất là nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn, sau này đạt giải nhất cuộc thi Concours Chopin lần thứ 10 (10-1980) tổ chức tại Varszawa, Ba Lan. Tiếp bước Đặng Thái Sơn là những tài năng khác như Tôn Nữ Nguyệt Minh (piano); Ngô Thành, Khắc Hoan (violon)... mang tiếng đàn chinh phục ban giám khảo và các khán giả sành điệu trong các cuộc thi âm nhạc quốc tế và sân khấu thế giới.
Quả
thật, dòng nhạc nào cũng kén người nghe và không phải ai cũng thích nghe nhạc
thính phòng hay nhạc giao hưởng. Và nếu như anh bộ đội Huy Đức không
thích "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" mà lại ưa những bài
hát có "người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em" thì cũng chả sao.
Trong
hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm
Duy đã nhận định rằng: "Đầu thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm
vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những bài hát thông
thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với
những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và
lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài
tầng lớp xã hội trong thời chiến."
---------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét