Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Sài Gòn-"HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG"?

 

Ngày hôm nay, 30-6-2025, biển tên Phường Sài Gòn đã được treo lên tại số 45-47 Lê Duẩn, nơi trước đây là Trụ sở UBND quận 1 -TP. Hồ Chí Minh.


Khi Nhà nước chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, địa giới hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh được mở rộng, bao gồm cả Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu. 

Hai chữ Sài Gòn được giữ lại để thành tên của một phường nằm ở khu vực trung tâm Thành phố. 

Rồi thì lại có mấy anh nhà thơ, nhà văn nửa mùa khóc thương cho cái mà họ gọi là Sài Gòn - "Hòn ngọc Viễn đông"- bị mất tên.

Những gì gọi là hồn cốt của Sài Gòn thì vẫn còn đó, có mất đi đâu?


"Hòn ngọc Viễn đông" là gì?

"Hòn ngọc Viễn Đông" là một mỹ từ mà thực dân Anh, Pháp, từ hơn một thế  kỷ trước, đặt cho một số thuộc địa của họ.

Không chỉ mỗi Sài Gòn mới được gọi bằng cụm từ này. Danh hiệu Hòn ngọc Viễn Đông còn được dùng để gọi Hương Cảng, Thượng Hải, Phnom Penh, Singapor, Manila, Sri Lanka, đảo Java, Birobijan và Harbin …

Ở xứ ta, ban đầu, người Pháp dùng mỹ từ này để gọi chung xứ Đông dương thuộc địa (Việt Nam, Lào, Căm pu chia). Người Pháp cũng dùng "Hòn ngọc Viễn Đông" để chỉ Sài Gòn, mặc dù so với một số các "Hòn ngọc" khác thì Sài Gòn thời đó còn kém xa về mọi mặt.

Danh hiệu "Hòn ngọc Viễn Đông" được dịch từ cụm từ tiếng Anh là "Pearl of the Far East", hoặc từ tiếng Pháp là "La Perle de l'Extrême-Orient", trong đó hai chữ "Viễn Đông" có nghĩa là "phương Đông xa xôi". 

Người Pháp gọi Sài Gòn là "Hòn ngọc Viễn Đông" để làm gì?

Về mặt văn bản, lần đầu tiên Sài Gòn được gắn vào cụm từ La Perle de l’Extrême-Orient, (dẫu còn ở thì tương lai và kèm theo điều kiện), có lẽ là vào năm 1881. Tờ báo Pháp  L’Avenir diplomatique (Tương lai ngoại giao) ra ngày 7-4-1881, dẫn lại từ bài diễn văn của Jules Blancsubé, thị trưởng đầu tiên của Sài Gòn, trong đó có đoạn hứa hẹn trước cử tọa Hiệp hội Hàng hải và Thuộc địa Pháp rằng:

Khi hệ thống giao thông đường thủy và đường sắt Đông Dương được hoàn thiện, thì: "... tous les produits de la Peninsule et de la Chine afflueront a Saigon, qui sera alors veritablement la perle de l'Extrême-Orient".

Dịch: ("...tất cả các sản phẩm của Bán đảo và Trung Quốc sẽ chảy vào Sài Gòn, nơi sẽ thực sự trở thành hòn ngọc trai của Viễn Đông").


                                                                    

Có thể thấy, ông Blancsubé dùng mỹ từ "Hòn ngọc Viễn Đông" với mục đích "kêu gọi đầu tư". Cụ thể là kêu gọi Hiệp hội Hàng hải và Thuộc địa Pháp đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thủy và đường sắt Đông Dương.

Sau này, ngoài mục đích "kêu gọi đầu tư" thì "Hòn ngọc Viễn Đông" có lẽ còn dùng để tuyên truyền về mặt chính trị, hay để tuyển viên chức người Pháp, (không thiếu những kẻ du thủ du thực ở chính quốc sang xứ Annam để trở thành quan lớn), hoặc để quảng bá, lôi kéo khách người Âu sang du lịch, thám hiểm và săn bắn ...

Ngoại vi Sài Gòn lúc bấy giờ còn nhiều rừng và thú hoang, có cả  thú dữ. Để ý rằng Huy hiệu biểu trưng cho Sài Gòn, do Hội đồng thành phố duyệt năm 1870, có khắc hai con cọp và hình ảnh cây cỏ đặc trưng cho vùng sông nước Sài Gòn. 


Quy mô "Hòn ngọc Viễn Đông" có lớn không? 

Mặc dù được người Pháp gọi một cách hoành tráng là "Hòn ngọc Viễn Đông", nhưng theo quy hoạch năm 1865 của người Pháp, thì Sài Gòn chỉ rộng khoảng 3 km², gồm 24 đường phố với các công sở và dinh thự cho người Pháp. Phần còn lại thì vẫn còn rất hoang vu.

Như đã nói, xung quanh Sài Gòn lúc bấy giờ còn nhiều rừng và thú dữ và huy hiệu biểu trưng của Sài Gòn còn thể hiện cảnh sông nước, hình hai con cọp và những cây cỏ hoang sơ. Vì thể việc Sài Gòn được người Pháp gọi là "Viên ngọc Viễn đông", vốn có thể là do chính vẻ đẹp và sự độc đáo từ thiên nhiên hoang dã của cả vùng, chứ không phải biểu thị cho sự phồn hoa, thịnh vượng trên diện tích 3 km² kia.



Nhà nghiên cứu Sơn Nam trong “Bến Nghé xưa” cho biết: mãi đến năm 1914 chợ Bến Thành mới hoàn thành và “trước mặt còn ao vũng sình lầy". Chỗ cái ao ấy, người Pháp gọi là ao Boresse, còn người Việt phiên âm là ao Bồ rệt, sau chỗ này trở thành công viên Quách Thị Trang và bây giờ là Nhà ga ngầm Trung tâm tuyến Metro Bến Thành- Suối Tiên. .




                                                        Ao Bồ Rệt (Marais Boresse)

 

Tại sao "Hòn ngọc Viễn Đông"lại bé thế?

Đơn giản là vì những người chủ trương xây dựng "Hòn ngọc Viễn Đông" không đủ tiền.

Dinh Xã Tây, bộ mặt công quyền của "Hòn ngọc Viễn Đông", khởi công năm 1873 nhưng 15 năm sau (1898) mới có tiền để xây dựng và mãi năm 1909 mới xong. 

Hệ thống đường sắt Đông Dương, dự án mang tính tiền đề để "Sài Gòn thực sự trở thành viên ngọc của Viễn Đông" như lời "kêu gọi đầu tư" của Blancsubé năm 1881, đến năm 1897 mới được Hội đồng Đông Dương thông qua và mãi tới năm 1908 mới xây dựng xong. Để có tiền thực hiện dự án đường sắt này, Toàn quyền Paul Doumer đã phải phát hành công trái vay 200 triệu Franc và trả trong vòng 75 năm.

Riêng tuyến Đà Nẵng-Nha Trang-Sài Gòn, gần bốn chục năm sau (tháng 10 năm 1936) mới hoàn thành.

Để kiếm ra tiền, thì từ năm 1881, người Pháp đã mở Nhà máy chế biến thuốc phiện (Manufacture d'Opium) ở ngay trong khu vực quy hoạch "Hòn ngọc Viễn Đông". Thuốc phiện từ đây được bán ra khắp Đông Dương, riêng năm 1914 lợi nhuận vọt lên cao, chiếm đến 36,9% ngân sách Đông Dương. Ngày nay vẫn còn di tích cái cổng nhà máy này ở số 74 đường Hai Bà Trưng.

Nhưng vẫn không đủ. Biện pháp khả dĩ nhất của Toàn quyền Doumer là tăng thuế. Đại úy Fernand Bernard, sĩ quan phụ tá của Doumer, trong cuốn Đông Dương - Những sai lầm và nguy hiểm (L’ Indo-Chine. Erreurs et dangers, NXB Charpentier, 1902), viết rằng:

“Vào năm 1897, chỉ trong vài tuần lễ, một cơn mưa đá thực sự đổ xuống. Tăng thuế thân và thuế địa ốc, thuế của những người không đăng ký, thuế đăng ký sắc phong của các quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy có đóng dấu, thuế muối, rượu, thuyền trên sông, giấy phép đốn gỗ, thuế thuốc lào, thuế cau, thuế củi, thậm chí cả thuế rơm thuế rạ để lợp những cái lều thảm hại nhất...”

Khai thác thuộc địa, thu đủ các thứ thuế một cách cực kỳ tàn ác, cộng thêm sản xuất rồi bán và ép người dân Annam phải tiêu thụ rượu và thuốc phiện để tăng nguồn thu, nhưng người Pháp vẫn thiếu tiền.

Đánh nhau với Đức 1914-1918 (Thế chiến I) , người Pháp phải moi thêm tiền dân đen Annam bằng cách vận động, bán trái phiếu “Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”.

Đánh nhau với Việt Minh 1954, người Pháp cũng hết tiền, phải nhờ nước Mỹ trả giúp 80% chiến phí.

Cho nên, tận đến ngày thua Việt Minh và tháo chạy về nước (1954), thì cái gọi là "Hòn ngọc Viễn đông" của nước Đại Pháp cũng vẫn chỉ loanh quanh trong phạm vi 3 km² (nay là một góc phường Sài Gòn) mà thôi.


                                                                    ---------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét