Chuyện chép lại từ Đông chu liệt quốc:
Nước Tề có ba dũng sĩ Công tôn Tiệp, Điền
Khai Cương và Cổ Gia Tử kết làm anh em, tự xưng là “tam kiệt”. Bọn “tam kiệt”
cậy mình có công to và sức khoẻ, vẫn thường khinh bỉ các quan triều thần, nhiều
khi ở trước mặt vua nước Tề (Tề Cảnh công) mà ăn nói hỗn láo, chẳng có lễ phép
chút nào cả.
Một hôm, vua nước Lỗ là Lỗ Chiêu công thân hành sang triều kiến
Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày tiệc để thết đãi.
Bên nước Lỗ thì Thúc Tôn Nhược làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh (tể
tướng nước Tê) làm tướng lễ. Bọn “tam kiệt” chống gươm đứng ở dưới thềm, tuy chầu rìa nhưng vẫn kiêu
căng ngạo mạn, không coi ai ra gì. Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công rượu đã ngà
ngà say.
Tể tướng Án Anh tâu rằng: Trong vườn quả kim đào đã chín, xin trẩy để
chúc thọ hai vua.
Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho Án Anh đi hái:
Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công: Đời cha tôi ngày xưa,
có người Đông Hải, đem cái hột đào đến để dâng, nói là giống “Vạn thọ kim đào”,
nguyên giống ở Độ Sách sơn ngoài biển, cũng gọi tên là “Bàn đào” nữa. Nước tôi
trồng đã hơn ba mươi năm, cành lá rất tốt, nhưng chỉ khai hoa mà không kết quả;
mãi đến năm nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quý lắm, nay nhân có nhà vua
tới đây, xin đem ra để dâng nhà vua.
Lỗ Chiêu công chấp tay cảm ơn, lát sau thì Án Anh đưa người giữ
vườn bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to bằng cái
bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương bay ngào ngạt, thật là một thứ của
quí.
Tề Cảnh công hỏi rằng: Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à ?
Án Anh nói: Còn ba, bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có
sáu quả.
Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc, đến
dâng trước mặt Lỗ Chiêu công. Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả
đào, thấy ngon ngọt lạ thường, nên ngợi khen mãi không ngớt.
Đến lượt Tề Cảnh công, cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả
đào, ăn xong, lại bảo quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Nhược rằng :
Thứ đào này quí lắm. Quan đại phu có tiếng là người giỏi, nay
lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả.
Thúc Tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng: Xét ra, tôi còn kém
quan tướng quốc (trỏ Án Anh) muôn phần. Quan tướng quốc trong thì sửa sang
chính trị, ngoài thì khiến cho chư hầu phải phục, có công to lắm, vậy thứ đào
này nên nhường để quan tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm.
Tề Cảnh công nói: Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người
một chén rượu và một quả đào.
Án Anh và Thúc Tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy.
Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: Trong mâm còn hai quả đào,
chúa công nên truyền lệnh cho các quan, người nào có công lao nhiều thì ra mà
lĩnh lấy quả đào ấy.
Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ cho các quan
rằng: Trong hàng các quan ai cũng có công lao nhiều, đáng ăn quả đào này thì
cho được đứng ra mà tâu. Đã có quan tướng quốc xét công lao mà cho đào.
Công tôn Tiệp đứng ra tâu rằng: Ngày xưa tôi theo chúa công đi
săn ở Đông Sơn, ra sức giết được hổ thì công ấy thế nào ?
Án Anh nói: Cái công bảo giá to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa !
Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn
Tiệp lãnh lấy rồi lui xuống.
Cổ Gia Tử đứng ra mà tâu rằng: Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi
trước tôi giết được con giải yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến chúa công nguy mà
lại yên, công ấy thế nào?
Tề Cảnh công nói: Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu
không có tướng quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật
là một kỳ công trên đời, đáng uống rượu và ăn đào lắm!
Án Anh vội đưa rượu và đào cho Cổ Gia Tử.
Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng: Tôi phụng mệnh
chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt sống được hơn năm trăm quân Từ,
vua Từ cùng vua Đàn, vua Cử đều sợ hãi mà phải xin hoà, tôn chúa công lên làm
chủ, cái công ấy có đáng ăn đào hay không?
Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: Cái công của Điền Khai Cương
ví với hai tướng trước, lại còn gấp mười, nhưng nay hết đào rồi thì hãy tạm
thưởng cho một chén rượu, đợi đến năm khác sẽ hay.
Tề Cảnh công bảo Điền Khai Cương rằng: Công nhà ngươi to lắm, tiếc thay nói chậm, thành ra hết cả đào.
Điền Khai Cương chống gươm nói rằng: Giết hổ và chém giải, chẳng
qua là những việc nhỏ mà thôi. Ta đây xông pha tên đạn ở ngoài nghìn dặm, biết
bao nhiêu công khó nhọc, lại không được ăn đào, chịu nhục ở trước mặt hai vua,
để tiếng cười về mai hậu, còn mặt mũi nào mà đứng trong triều đình nữa!
Nói xong, đâm cổ chết ngay.
Công Tôn Tiệp giật mình, cũng rút gươm mà nói rằng: Chúng ta
công nhỏ mà được ăn đào, họ Điền công to mà không được ăn. Ta ăn đào mà không
biết nhường, sao gọi là liêm; thấy người ta chết mà không theo, sao gọi là
dũng?
Nói xong, cũng đâm cổ chết.
Cổ Giả Tử kêu rầm lên rằng: Ba chúng tôi kết nghĩa với nhau, thề
cùng nhau sống chết, nay hai người đã chết, ta còn ham sống làm gì!
Nói xong, lại cũng lấy gươm đâm cổ chết.
Từ chuyện này, Trung Quốc có thành ngữ 二桃杀三士 "Nhị đào sát tam sĩ", nghĩa là hai quả đào giết ba
tráng sĩ.
Kể ra cũng lạ, ba thằng tráng sĩ, cậy công, cậy khéo, cậy khỏe, khinh bỉ quan chức, coi thường cả vua, không chết vì hổ dữ, vì yêu quái, giặc hại cũng không chết. Thế mà lại chết vì hai quả đào.
Mà thật oái oăm, đào này lại có tên là đào Vạn Thọ.
-----------
Thêm: Xem ra mấy anh quân tử Tàu này thua xa cụ Trạng bên mình.
Truyện Dân gian Việt Nam kể:
Cụ Trạng Quỳnh thấy người ta dâng mâm đào Trường Thọ lên vua, điềm nhiên bốc ăn trước, làm cả triều kinh hãi. Vua giận định chém, Quỳnh đòi phải chém người dâng đào cho vua trước đã, vì đào này là đào đoản thọ chứ không phải trường thọ.
Vua phì cười, và thấy Quỳnh nói cũng có lý, nên tha.