Tướng Tấn và Đại tướng Võ NGuyên Giáp |
Đại tướng Lê Trọng
Tấn có một vị trí đặc biệt trong những trang sử vẻ vang nhất của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Như ta đã
biết, Lê Trọng Tấn là vị tướng được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặc
biệt quý trọng và tin tưởng. Tướng Giáp từng nói: “Trận nào có anh Tấn đốc chiến thì mình đã yên tâm 50% rồi”. Thế nhưng, không
phải không có những lúc tướng Tấn “cãi” tướng Giáp.
Trong chiến dịch
Điện Biên Phủ, ông Tấn là người chỉ huy đại đoàn 312 đánh trận mở màn vào cứ
điểm Him Lam và kết thúc chiến dịch bằng việc bắt sống tướng de Castries
(Đờ Cát).
Trong chiến dịch
Hồ Chí Minh, cánh quân phía Đông do ông chỉ huy lại là đơn vị đầu tiên,
thần tốc tiến vào Sài Gòn, và kết thúc chiến dịch với tuyên bố đầu
hàng của Tổng thống chính quyền VNCH Dương Văn Minh.
Khi đại đoàn
312 được thành lập (27-12-1950), ông Tấn mới 36 tuổi, được giao chức Đại
đoàn trưởng kiêm Chính ủy.
Ngày
14-01-1954, cán bộ chỉ huy các đại đoàn được Bộ Tổng Tư lệnh chiến dịch phổ biến
phương án “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Mười hai ngày sau, 26-1-1954, một cuộc họp Đảng ủy bất thường do tướng Giáp triệu tập tại hang Thẩm Púa.
Tướng Giáp, sau một đêm thức trắng, quyết định chuyển sang phương án “đánh
chắc, tiến chắc”. Những vị chỉ huy như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Hoàng Văn
Thái... đều im lặng hoặc băn khoăn trước đề xuất "đánh chắc, tiến chắc"
được đưa ra. Người “cãi” kịch liệt nhất là Lê Trọng Tấn, vì đại đoàn
312 vừa mới tốn bao công sức và xương máu để đưa pháo vào trận địa, chỉ
mới được vài ngày đã phải “kéo pháo ra”, khí thế đang hăng bây giờ biết
“ăn nói” với bộ đội thế nào? Mặc dù trước đó, chính báo cáo của
ông Tấn với tướng Giáp:“Chúng tôi phải
liên tục đột phá ba phòng tuyến mới tới phía bên trong được” đã phần nào
thúc đẩy quyết định lịch sử (thay đổi phương án tác chiến) của
tướng Giáp.
Tuy “cãi”, nhưng “quân
lệnh như sơn”, ông Tấn vẫn phải chấp hành, và chính ông là người đề
xuất khẩu quyết "vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt", được bộ đội phổ
biến và áp dụng thành công trong suốt chiến dịch.
Theo ghi chép của cựu nhà báo quân đội Bùi
Tín, “vài chục năm sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, tướng Giáp và tướng Tấn đã có buổi trò chuyện thân mật với báo giới về
cuộc họp tại hang Thẩm Púa. Theo lời kể vui của Đại tướng, chính người đúc kết
khẩu quyết "vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt" là vị chỉ huy phản ứng mạnh
nhất với quyết định chuyển đổi phương án tấn công của ông tại hang Thẩm Púa
ngày 26/1/1954. Tướng Tấn cười, thừa nhận câu chuyện trên và cho biết: khi ấy,
ông quá lo lắng về việc chiến dịch sẽ kéo dài và phải chuẩn bị lại trận địa
pháo”.
Tròn 31 năm lẻ hai
tháng sau, tướng Tấn lại “cãi” tướng Giáp.
Ngày 26-3-1975 tại Tổng
hành dinh, Tổng tư lệnh chiến dịch là tướng Giáp họp với tướng Tấn, người
vừa được chỉ định là Tư lệnh mặt trận Quảng Đà, bàn kế hoạch tiến công Đà Nẵng.
So sánh tương quan lực lượng hai bên,
(tại Đà Nẵng, phía VNCH có hơn 100.000 lính và sĩ quan), tướng Tấn đã
chuẩn bị sẵn một phương án đánh chiếm Đà Nẵng trong 7 ngày, sau rút
xuống còn 5 ngày.
Tuy nhiên, Đại tướng
Tổng tư lệnh lại nghĩ khác (*), tình hình có thể diễn biến đột ngột, khả năng địch
tháo chạy là rất có cơ sở. Nếu đánh kéo dài trong 5 ngày để địch co cụm
được thì sẽ hỏng việc lớn. Do vậy, sau khi tham khảo thông tin từ Cục quân
báo, tướng Giáp yêu cầu tướng Tấn chuẩn bị phương án đánh trong 3 ngày.
Trong hồi ký Tổng
hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, tướng Giáp kể lại: “Anh Tấn vẫn giữ ý kiến, và trình bày: Đánh
như vậy không thể chuẩn bị kịp. Tôi nói, giọng có phần gay gắt: “Tư lệnh mặt trận
là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng
theo phương án chuẩn bị 3 ngày. Nếu chuẩn bị 5 ngày, địch rút mất cả thì sao?
Huế đã giải phóng rồi. Mặc dầu pháo binh và hải quân địch có thể bắn phá, cứ
cho bộ đội hành quân theo đường số 1 tiến công thẳng vào Đà Nẵng. Từ phía nam
cũng theo đường số 1 tiến công lên. Không họp đảng uỷ, chỉ trao đổi bằng điện”.
Sau đó, như ta đã
biết, tướng Tấn đã chấp hành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong vòng 3
ngày, quân đoàn 2 của tướng Tấn thổi bay hơn 100.000 quân địch, giải phóng
Đà Nẵng (**).
Sau này, khi hoàn
thành chiến dịch, lúc gặp lại tướng Tấn, tướng Giáp nói vui: “Lẽ ra mình cho
cậu 5 điểm (***), nhưng vì chuyện “3 ngày” nên chỉ cho 3 điểm thôi”.
Cần nói thêm, ý tưởng
ban đầu là sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột, quân ta sẽ khẩn trương tiến dọc
Tây Nguyên, tấn công Sài Gòn rồi sau đó mới trở ra “giải quyết” các tỉnh đồng
bằng Duyên hải. Nhưng, quyết định mở mặt trận giải phóng Huế – Đà Nẵng của tướng
Giáp là một thay đổi cực kì quan trọng.
Sau khi chỉ huy
giải phóng Đà Nẵng, tướng Tấn được cử làm Tư lệnh cánh quân phía Đông gồm Quân
đoàn 2 và Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Sài Gòn. Cánh quân này đã thần tốc
theo đường ven biển tiến về phía Nam, nhanh chóng phối hợp với các cánh quân
khác của quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Trong trận cuối
cùng đánh vào Sài Gòn, một lần nữa, tướng Tấn lại “cãi”, nhưng lần "cãi" này thì ông hoàn toàn thuyết phục được tướng Giáp.
Hồi ký Tổng
hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của tướng Giáp cho biết: “Theo kế hoạch, 5h30 sáng 30/4/1975, các hướng
đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Riêng
cánh quân phía đông, anh Lê Trọng Tấn đề nghị nổ súng từ 18 giờ ngày 29/4. Lý
do là các lực lượng ta còn cách vùng ven từ 15 đến 20km, phải vừa đánh địch vừa
tiến quân, lại phải vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nếu cùng nổ súng sẽ
không đến kịp”.
Tại Hội thảoTổng
kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, tướng Giáp xác nhận: “Cánh quân phía Đông là
sáng tạo của Bộ Tổng Tham mưu vì nó không có từ đầu trong kế hoạch giải phóng
miền Nam”(****).
Kết quả là
mặc dù cánh quân của tướng Tấn ở cách xa nội đô hơn các mũi khác, nhưng họ
lại là những chiến sĩ đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập, bắt sống nội
các cuối cùng của chính quyền VNCH.
Chiến công của sư
312 trong chiến dịch Điện Biên phủ và cánh quân phía Đông trong chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử đều in đậm dấu ấn chỉ huy của vị tướng “hay
cãi”, Đại tướng Lê Trọng Tấn.
Tướng Lê Trọng Tấn (người ngồi chính giữa) cùng cán bộ chiến sĩ quân đoàn 2 sau khi tiến vào Saigon |
--------------
(*) Hai ngày trước đó, trong cuộc họp Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương (ngày 24/3), tướng Giáp phân tích: “Nếu chúng thoát được vào phía nam thì cuộc
Tổng tiến công của ta ở chiến trường trọng điểm sẽ gặp khó khăn. Vậy ta cần
nhanh chóng đánh chiếm Đà Nẵng, tiêu diệt sinh lực của địch ở đây, tạo thuận lợi
phát triển tiến công trong các bước sau. Chúng có thể "tử thủ", cũng
có thể rút, rút nhanh hay rút chậm, nhưng ta thì phải chuẩn bị đánh trong tình
huống địch rút nhanh, nhất thiết phải đánh nhanh. Không chờ giải phóng xong Huế,
mà ngay từ bây giờ, phải bắt đầu mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Nhanh chóng
đánh chiếm các điểm cao, cho xe tăng thọc sâu ngay, tận dụng tối đa khả năng của
pháo binh để tiến công Đà Nẵng”.
(**)Theo tướng Cao
Văn Viên, đại tướng, Tổng tư lệnh Quân đội VNCH (The final collapse),
Quân đoàn I của phía VNCH đồn trú tại Đà Nẵng lúc ấy sở hữu một khối
lượng binh lực, vũ khí, phương tiện chiến tranh và dự trữ hậu cần rất lớn gồm
134.000 sĩ quan và binh sĩ, trong đó có 84.000 quân chủ lực và 50.000 quân địa
phương; 449 xe tăng, xe bọc thép; 418 khẩu pháo lớn có cỡ nòng từ 105mm đến
175mm; 27 xe bọc thép M-42 gắn cao xạ 40 mm 2 nòng; 37 xe cùng loại gắn
súng máy 6 nòng loại Vulcan; 373 máy bay, trong đó có 96 máy bay chiến đấu; 165
tàu, xuồng các loại.
(***) Thang
điểm hệ đại học bấy giờ, mức tối đa là 5 điểm.
(****) Bài
viết: “Mãi mãi nhớ anh Tấn” của Trung tướng Lê Hữu Đức đăng trên Tạp chí Xưa và
Nay.
Chậc tướng xưa thế, không biết tướng giờ có biết bóp cò súng không nữa hic hic.
Trả lờiXóaTướng giờ thì chả quen ai, chứ bạn bè lon đại tá thì cả lo cả lốc, bóp chim giỏi phết.
Trả lờiXóaphải phải cái khoản chim cò thì tá cũng ngon lắm rồi.
XóaTướng giỏi cải soái tài, TẤN đó GIÁP đây, rồng hổ chung vai, nước Việt hai phen qua sóng dữ.
Trả lờiXóaTớ hèn cương chủ nhát, LÝ kia CHUNG nọ, cáo chồn riêng bụng, dân Nam một thưở được trận cười.
Quốc biến nảy rồng lân, Nam quốc ghi ơn, GIÁP - TẤN danh thơm đề thanh sử
Gia vong lòi sâu mọt, Việt dân nguyền rủa, LÝ - CHUNG tiếng xấu để hồng trần
VĂN
(Vũng Chùa - Quảng Bình)
P/s : Tau đánh giặc là giỏi còn văn chương thi phú thì thi thoảng múa rìu qua mắt quốc sư, Khiêu nhá !