Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

Cụ Tiên Điền bênh gái



Entry này có thể coi là một bổ túc cho bài Câu đối cụ Thợ Dìu, ai ưng thì mở ra đọc kèm, như ăn mắm với rau. Nhưng, xin đặt cái tựa như trên để gây sốc.  
1.     Thêm một câu đối nửa Nôm nửa Hán
Hôm trước đã giới thiệu một câu đối kỳ tài của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, viết mừng một ông người làng mần nhà mới:
“Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tích tằng xưng tị ốc
Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu tôm”.
Tưởng đã là độc nhất vô nhị. Nhưng còn một câu khác cũng tài tình không kém, và được cho là do chính vua Khải Định làm ra. Nhân vừa đọc lại cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng Sển, xin dẫn ra đây:
"Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngôi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng rạng ra rồng. ngông ra phết cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng.
Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật Tứ Quân, như Trần Quốc Tuấn, như Phạm Công Thượng tướng quân, như Bạch Vân phu tử, như ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn thời chi thế, thế chi sử, khỉ nhưng nhiên phủ, thần long đắc vũ tiện vân đằng”.
Trong cuốn sách nói trên (chương 17), cụ Vương cho biết, cụ lấy tư liệu từ cuốn "Giai thoại văn chương Việt Nam” của nhà văn Thái Bạch do nhà Sống Mới in năm 1972 tại Saigon.
Cụ Vương bình luận, và cũng có chút thắc mắc:
“Vế trước rặt nôm, vế sau ròng chữ vừa duyên dáng vừa tài tình, vừa có một khiếu trào lộng không ai hơn. Nếu phải đó là của ngài Bửu Đảo, sau nầy là Hoàng Tôn Tuyên Hoàng đế, trong Nam thường biết là ông vua Khải Định, thì đáng phục biết mấy, nhưng tại sao khi trên đất Pháp, khi đốc lý Paris xin một câu ghi trong quyển sổ vàng, ông đứng cả canh mà rặn không ra?”.
Trong khi cụ Vương có ý chê hành vi của cụ Khải Định trên đất Pháp thì bên Tàu,
2.     Cụ Nguyễn Du “bênh” người đẹp Dương Quý Phi
Nhân vật Dương Quý Phi có vài điểm tương đồng nhân vật Vương phi Đặng Thị Huệ bên ta.
Dương Quý Phi bị coi là mầm mống sinh ra đại loạn, gây tai họa cho nhà Đường bên Tàu. Bên ta, Đặng Thị Huệ bị coi là “tác giả” của nhiều biến cố thời vua Lê chúa Trịnh, dẫn đến cơ đồ hơn hai trăm năm của nhà Trịnh sụp đổ.
Dương Quý Phi có anh trai là Dương Quốc Trung, còn Đặng Thị Huệ có em trai là Đặng Lân (Đặng Mậu Lân). Trung và Lân giống nhau ở chỗ bị đánh giá là chuyên cậy thế vua chúa làm những việc vô đạo, xa hoa, càn rỡ, gây ra nạn “kiêu binh”, làm tổn hại tới vận mệnh triều đình.
Kết cục Dương Quý Phi buộc phải thắt cổ mà chết, còn Đặng Thị Huệ thì tự uống độc dược mà chết.
Bài thơ Dương Phi Cố Lý, cụ Nguyễn Du viết vào năm 1789, trên đường đi sứ Tàu (Bắc hành tạp lục), chỉ cách vài năm sau cái chết của Đặng Thị Huệ.
Phiên âm Hán Việt:
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình
Nghĩa:
Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
Nghe nói đây là quê của Dương Phi.
Chỉ tại triều đình như bầy phỗng đá, 
Ngàn năm cứ đổ oan cho sắc đẹp
Cung Nam buồn cỏ bồng mọc ngập lối
Tây giao vắng, gò nay thành bình địa. 
Phấn lạt hương phai biết tìm đâu,
Gió Đông dưới thành gợi nỗi niềm.
Trong bài có hai câu Tự thị cử triều không lập trượng,Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành. Khác với “dư luận xã hội”, cụ Tiên Điền không “ném đá” Dương Quý Phi mà chỉ rõ, nhà Đường mất nước là do đám quan lại triều đình quanh năm bày mưu tính kế, ăn hại đái nát, nhưng đến lúc cần hành động thì hóa ra toàn là tượng gỗ.
Không biết khi viết bài này, cụ Tiên Điền có liên tưởng đến trường hợp Đặng Thị Huệ với họ Trịnh hay không?
Soi trên mạng có bản dịch của cụ Quách Tấn, xin trân trọng giới thiệu:
Mây ngàn hoa bến nước lung linh,
Dương Quí Phi xưa đất ấy sinh.
Bởi nỗi cả triều tài phỗng đá,
Ðể cho muôn thuở tội nghiêng thành.
Cấm cung bỏ phế, bồng hiu hắt,
Mồ cũ san bằng, cảnh vắng tanh.
Gió lạnh dưới thành ngơ ngẩn bóng,
Tìm đâu cho thấy cánh hoa tàn.
Còn dưới đây là cụ Lý tự dịch. Cũng xin chỏng gọng giới thiệu:
Phiên âm:
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình,
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình
Dịch (1)
Bờ hoa rực rỡ núi đùa mây
Thấy bảo Dương phi sinh đất này
Một thủa triều đình toàn tượng đứng
Ngàn năm người ngọc chịu tai bay
Lặng ngắt Tây Giao gò hóa phẳng
Đìu hiu Nam nội cỏ mọc dày
Cánh hồng tàn rụng tìm đâu thấy?
Dưới thành duy có gió Đông hay...
Đang cáu, dịch thêm phát nữa (2):
Lưa thưa mây núi, bến hoa ngời
Quê em đó phỏng? Ái thương ôi!
Triều đình mà lú toàn tượng đái
Thành nghiêng hồn lở đứa hoa (k)hôi?
Đìu hiu Nam nội dày đặc cỏ
Lặng ngắt Tây Giao lộn cả đồi
Mây trôi bèo dạt về đâu nhỉ?
Gió Đông sùi sụt mãi chưa nguôi.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét