Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

Đây, Lệnh nổ súng.




Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, lại nhìn thấy Tàng Tướng quân, khoác áo va-rơi, ngực đeo đầy huân huy chương. Ngài chẳng ngồi trên khán đài mà lại một mình làm một khối, lầm lũi tự diễu hành.
Chợt nhớ trên blog này có bài viết (dạng bản nháp, chưa đăng) về Lệnh nổ súng, viết hồi Tướng quân chủ biên cuốn sách tai tiếng "Vòng tròn bất diệt". Chả nhớ tại sao hồi đó đã viết, rồi lại không đăng lên blog.
Thôi bây giờ đăng cũng được, tuy có muộn. Gọi là góp thêm nguồn tài liệu cho Tàng Tướng quân về cái Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, mà ngài bảo là BQP cấm "không được nổ súng".
--------------------

Vấn đề Trường Sa vốn không chỉ liên quan đến hai bên Việt Nam và Trung Quốc. Ở đây có sự tranh chấp chủ quyền “đa quốc gia” gồm các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Trung Quốc, Bruney  Đài Loan. 
Nếu có đủ đôi mắt tinh tường để nhìn sâu và rộng hơn thì phải thấy đây là vấn đề quốc tế, đa phương và có những quốc gia ở tận đâu đâu cũng thèm được nhảy vào “tham gia kiểm soát” hay bằng cách “gợi ý” để được làm “bảo kê”.
Hiện nay Việt Nam kiểm soát được 21 thực thể địa lý (7 đảo, 14 bãi ngầm), Philippines 10 (7 đảo, 3 bãi ngầm), Trung Quốc 7 bãi ngầm, Malaysia 7 bãi ngầm, Đài Loan 1 đảo và 1 bãi ngầm.
Thành quả ấy hiển nhiên không thể đến từ một cái lệnh cấm “Không được nổ súng”. Có mù mới không thấy điều đó.
Hãy nhìn lại toàn cảnh:
Năm 1956, Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình. Đầu thập niên 1970, Phillipnes chiếm 7 đảo và rạn đá phía đông quần đảo..
Đầu năm 1978, Philippines chiếm đóng đá An Nhơn (cồn san hô Lan Can), Malaysia cũng rục rịch đưa tàu quân sự đến khu vực.
Trước tình hình trên, trong năm 1978, Hải quân Việt Nam tiến hành việc đóng giữ tất cả các đảo nổi còn lại, đó là các đảo An Bang (10/3/1978), Sinh Tồn Đông (15/3/1978), Phan Vinh (30/3/1978) và Trường Sa Đông (4/4/1978). Trước năm 1978 thì Hải quân Việt Nam đã chốt giữ tại 5 đảo nổi, gồm các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa.
Cuối năm 1986, Philippines lại cho tàu trinh sát từ đảo Song Tử Tây ở phía Bắc đến bãi Thuyền Chài ở phía Nam khu vực. Ngày 31/12/1986, Malaysia chiếm đóng bãi Kỳ Vân, tháng 1/1987 họ chiếm đóng bãi Kiệu Ngựa.
Do vậy, ngày 5/3/1987 Hải quân Việt Nam quay trở lại đóng giữ đá Thuyền Chài. Đây là bãi đá san hô (đảo chìm) đầu tiên ở Trường Sa được Hải quân Việt Nam đóng giữ. 
Tổng cộng, đến năm 1987 ta đóng giữ 10 đảo, bãi ở quần đảo Trường Sa, trong đó có 9 đảo nổi.
Khi ấy Trung Quốc chưa hiện diện trên một thực thể địa lý nào ở Trường Sa. Nhưng họ đã sử dụng nhiều tàu cá, tàu nghiên cứu thăm dò phối hợp với tàu chiến chuẩn bị xâm chiếm một số bãi đá ngầm, thậm chí họ cho tàu cá vào lòng hồ, sát các đảo của ta để đánh cá, khảo sát, trinh sát hoặc khiêu khích.
Ngày 25/10/1987, Tư lệnh Giáp Văn Cương trực tiếp báo cáo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh về nội dung Kiến nghị của Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân về “Kế hoạch đóng giữ bảo vệ ở quần đảo Trường Sa” và đề nghị cho máy bay trinh sát nắm tình hình trên khu vực biển Trường Sa.
Ngày 6/11/1987, Bộ Quốc phòng ký Mệnh lệnh số 1679/ML-QP gửi các quân chủng Hải quân, Không quân về việc Bảo vệ Trường Sa.
Trong Mệnh lệnh này, chỉ thị (lệnh) về việc phải đánh trả trong trường hợp có đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp, là rất rõ ràng và dứt khoát:
“Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, không chờ xin chỉ thị của cấp trên, trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ. Khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và luôn cảnh giác, tỉnh táo, không mắc mưu địch khiêu khích”.
(Trang 276 (chương 7) “Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955- 2015)”, Nhà xuất bản QĐND, 2015).
Lệnh nổ súng được ghi lại trên giấy trắng mực đen là như thế.
Bọn dân trủ giả cầy thì luôn giở trò vu vạ, đã đành, còn riêng Tàng Tướng công thì có mù đâu, sao lại không nhìn thấy? 




------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét