-----------
Hôm 16/11/2018, Tòa
án quốc tế xét xử tội ác Khmer đỏ tại
Campuchia (ECCC), với sự bảo trợ của
Liên Hiệp Quốc, phán
quyết rằng chính quyền Khmer đỏ đã
phạm tội “diệt
chủng” tại Kampuchea trong giai đoạn từ năm 1975-1979.
Hai trong số các thành viên cốt cán của Khmer
đỏ là Nuon Chea và Khieu Samphan bị tuyên
là đã phạm nhiều tội ác chống lại loài người - bao gồm giết người, nô lệ
và tra tấn - và các vi phạm trong các Công ước Geneva. Trùm thủ lĩnh Pol Pot,
kẻ chủ mưu, cùng các “đồ tể” như Ta Mok hay Ieng Sary đã… kịp chết trước khi
tòa nghị án.
“Phán quyết lịch sử” này được các thẩm phán
đưa ra sau tròn 4 thập kỷ và tiêu tốn hết 318,9
triệu USD.
Dẫu có muộn, phiên tòa
này vẫn là sự thừa nhận chính thức đầu tiên rằng chế độ Khmer đỏ đã thực hiện một
sự diệt chủng như đã được luật pháp quốc tế định nghĩa.
Bản án lần này của ECCC
cũng là minh chứng rõ nét việc Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Kampuchea phải
được coi là quyền tự vệ chính đáng đồng thời còn là sự can thiệp nhân đạo kịp
thời, giúp nhân dân Kampuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Nhưng nếu công lý quốc
tế không phải là một tấn tuồng hài, thì ECCC sẽ phải tiếp tục lôi cổ những kẻ
tòng phạm với Khmer đỏ ra trước tòa.
Luật sư biện hộ cho Ta
Mok, tên “đồ tể” của Khmer đỏ, từng chỉ
đích danh: “Mọi người ngoại quốc liên
quan phải được gọi ra trước tòa án, và sẽ không có những ngoại lệ… Madeleine
Albright, Margaret Thatcher, Henry Kissinger, Jimmy Carter, Ronald Reagan và
George Bush… Chúng tôi sẽ mời họ tới để nói cho thế giới biết rằng tại sao họ
đã hỗ trợ cho Khmer đỏ”.
Những “tòng phạm” cần
được đưa ra trước vành móng ngựa bao gồm Trung quốc, Mỹ, Anh, Thailand…, và trong
một chừng mực nào đó, chính là Liên Hợp Quốc.
Năm 1979, Zbigniew
Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của Mỹ, từng xác nhận chính sách của Hoa
kỳ: “Tôi khuyến khích Trung Quốc hậu
thuẫn Pol Pot. Tuy thể chế Pol Pot là đáng ghê tởm, chúng ta không thể ủng hộ
thể chế này, nhưng (thông qua) Trung quốc thì có thể được”.
Với sự đồng lõa của Mỹ, Trung
quốc đã hỗ trợ Khmer đỏ với 80 triệu dollar hàng năm còn Hoa kỳ viện trợ cho
các phe đối lập khác.
Andrew Mertha, tác giả
cuốn “Brothers in Arms: China's Aid to the Khmer Rouge, 1975-1979” nhận định: “Nếu không có sự hỗ trợ của Trung Quốc, chế
độ Khmer đỏ không thể tồn tại được quá một tuần”.
Các khoản này gồm từ
thực phẩm, vật liệu xây dựng cho tới xe tăng, máy bay, pháo và các chuyên gia
quân sự.
Nhà báo Pháp John Pilger
(Tạp chí Le Courrier International) viết năm 2000, rằng Pol Pot không thể nào
lên nắm quyền nếu tổng thống Mỹ Richard Nixon và cố vấn Henry Kissinger
không mở chiến dịch tấn công vào Kampuchea (khi đó còn là một quốc gia trung
lập). John Pilger kết luận mỉa mai là “Khmer
đỏ đã hoàn tất những gì mà Nixon và Kissinger khởi đầu (chiến dịch dùng B52
ném bom hủy diệt Kampuchea từ năm 1970).
Thế nhưng Kissinger sẽ không ngồi vào ghế bị cáo ở Phnom Penh vì ông đang bận
cố vấn cho tổng thống Barack Obama về các vấn đề địa chiến lược”.
Năm 1979, Hoa kỳ và Anh
áp đặt cấm vận đối với một nhà nước Kampuchea bị kiệt quệ. Là ân nhân giúp giải
phóng nhân dân Khmer khỏi họa diệt chủng, nhưng Việt Nam phải chịu “phạt vạ” do
bị Phương Tây coi là không đứng về “phe tốt”, và bị cấm vận kinh tế trong suốt
gần hai thập kỷ. Các khoản viện trợ cho Việt Nam và chính quyền mới ở Phnom
Penh đều bị cắt. Các Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng thế giới (WB)
ngưng các khoản cho vay đối với Việt Nam và Kampuchea dưới áp lực của Mỹ và
đồng minh.
Pilger còn viết rằng
chưa bao giờ có một chiến dịch do bộ Ngoại giao Anh tổ chức lại trắng trợn như
thế. Bằng cách cùng với Mỹ và Trung quốc bịa tạc ra một liên minh “không cộng
sản”' lưu vong, nước Anh đòi hỏi chế độ diệt
chủng được giữ “quyền” đại diện cho nạn nhân của nó ở Liên Hiệp Quốc.
Ở Thái Lan, các cơ
quan tình báo Mỹ CIA và DIA duy trì quan hệ mật thiết với Khmer đỏ. Tới
năm 1985, CIA viện trợ cho các nhóm du kích đóng ở Thái Lan, trong đó chủ yếu
là Khmer đỏ lên tới 12 triệu USD, cơ quan USAID cũng chuyển quân viện giá trị
đạt 13 triệu USD năm 1989.
Năm 1983, huấn luyện cho
các thành phần này, đặc biệt là các kỹ thuật gài mìn, là 250 sĩ quan thuộc lực
lượng đặc biệt SAS của nước Anh. Khi bị nghị sĩ Neil Kinnock chất vấn, bà Margaret
Thatcher hoàn toàn phủ nhận, thề thốt rằng chính quyền Anh không hề dính líu
vào việc huấn luyện, trang bị, hay một hình thức hợp tác nào với lực lượng
Khmer đỏ hay đồng minh của họ. Nhưng năm 1991, thủ tướng kế nhiệm là John Major
thú nhận trước Quốc hội rằng lực lượng đặc biệt SAS đã thực sự tham gia huấn
luyện cho tàn quân Pol Pot.
Một nhà báo Pháp khác, Francis
Deron, đã viết trên Le Monde 2 rằng chính chiến dịch do Mỹ tiến hành ở Kampuchea
(dựng lên chính quyền Lon Nol năm 1970) đã đẩy
quốc vương Sihanouk đến với Khmer đỏ, lực lượng mà trước đó ông vẫn săn đuổi.
Trong bài báo của mình,
Francis Deron chỉ ra thái độ “bẩn” của Henry Kissinger: “Khi Pol Pot lên nắm quyền ở Phnom Penh, các nhà phân tích của CIA đã
cố cảnh báo về chế độ diệt chủng đang được thiết lập ở đây. Dường như chỉ có
một người lắng nghe họ, đó là Henry Kissinger, nhưng không phải là để ngăn chặn”.
Tài liệu được giải mật
ngày 27 tháng 7 năm 2004 cho biết: Ngày 26/11/1975, trong buổi chiêu đãi do Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức tiếp các đại diện Thái Lan, Kissinger nói: “Chúng tôi nghĩ là mối đe doạ lớn nhất đối với Đông Nam Á hiện giờ,
đến từ Bắc Việt Nam. Chiến lược của chúng tôi là lôi kéo Trung quốc đến Lào và Kampuchea
để ngăn chặn Việt Nam. Hãy nói với những người Khmer rằng chúng tôi sẽ là bạn
của họ. Họ là những tên côn đồ sát nhân, nhưng nói riêng giữa chúng ta
thì điều đó không quan trọng. Chúng tôi sẳn sàng cải thiện quan hệ với họ.
Hãy nói lại với họ phần cuối những gì tôi vừa nêu, đừng lặp lại phần đầu”.
Francis Deron nhận định
là, do “cay cú bởi nỗi nhục thua trận tại Việt Nam”, Kissinger đã không ngại sử
dụng các trò tiểu nhân bần tiện, trong đó việc Khmer đỏ thù ghét Việt Nam được
xem là một “phương cách hay”. Mặt khác, với Kissinger, “cơ hội tốt” đã xuất hiện khi năm 1976,
kế vị Mao ở Bắc Kinh chính là Đặng Tiểu Bình, người mà theo Deron, cũng thù hận
Việt Nam chẳng kém Kissinger.
Trong bài báo “The Pol
Pot dilemma” ngày 29/5/2015, các tác giả
Charles Parkinson, Alice Cuddy và Daniel Pye dẫn nguồn hồ sơ ngoại giao Mỹ (do
WikiLeaks công bố) cho thấy nước Mỹ “quan tâm” vấn đề nhân quyền ở Kampuchea
theo kiểu nào:
Điện của Bộ Ngoại giao
Mỹ gửi đến 6 đại sứ quán Mỹ tại châu Á vào ngày 11/10/1978: “Chúng
tôi tin rằng một nước Campuchia phải tồn tại ngay cả khi chế độ Pol Pot là chế
độ vi phạm quyền con người tồi tệ nhất thế giới”.
Các bức điện tín cũng
cho thấy sự dối trá của Trung Quốc và Mỹ về các vụ tàn sát do Khơme đỏ thực
hiện. Tại một cuộc họp giữa một phái đoàn Trung Quốc và các thượng nghị sĩ Mỹ,
Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Chai Tse-Min đã nói với Thượng nghị sĩ John Sparkman
rằng “báo cáo về các vụ giết người hàng
loạt ở Kampuchea là không đúng sự thật”.
Một bức điện khác xuất
phát từ Đại sứ quán Mỹ tại Lào đã báo cáo con số 2 triệu người đã chết dưới tay
Khmer đỏ. Dẫu vậy, bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tìm mọi cách để giữ ghế đại diện tại
Liên Hiệp Quốc cho chúng. Ngoại trưởng Mỹ George Schultz chống lại việc mở một
tòa án quốc tế xét xử tội phạm diệt chủng của Khmer đỏ. Đến năm 1989, người kế
nhiệm ông ta là James A. Baker thậm chí còn mở cửa cho Khmer đỏ tham gia vào
“chính phủ Campuchia”.
Trong phiên họp tại LHQ
ngày 16/08/1989, Trung quốc và Singapore phủ nhận hành vi diệt chủng của Khmer
đỏ. Cựu ngoại trưởng Singapore, Bilahari Kausikan sau đó thừa nhận Mỹ đã dọa Singapore rằng sẽ có “máu đổ trên sàn nhà” nếu Singapore không ủng hộ
Khmer đỏ. Nói cách khác, Singapore thể hiện việc “bảo vệ lợi ích Mỹ” bằng cách đứng
về phe Khmer Đỏ.
Thailand mở cửa biên giới
cho Khmer đỏ thiết lập các căn cứ quân sự. Trung quốc và Thái cùng lập ra một hành
lang tiếp tế cho Khmer Đỏ qua các cảng
Sattahip và Klong Yai trên đất Thái. Quân đội Thái được Trung quốc
trả tiền để tuồn vũ khí, lương thực, thuốc men cho Khmer đỏ. Trung quốc cũng cho
phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí đồng thời chuyển giao công nghệ chế
tạo vũ khí chống tăng cho Thái với thỏa thuận Khmer đỏ phải được hưởng một phần
sản phẩm.
Trước nạn diệt chủng xảy
ra ở Kampuchea, Liên Hiệp Quốc cũng là kẻ “đồng lõa” cùng với những chính sách và
thái độ của các “nước lớn” trong suốt 20 năm.
Chương trình lương thực
thế giới của LHQ đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ, góp
phần nuôi sống những kẻ diệt chủng thay vì cứu giúp những nạn nhân khốn khổ của
chúng.
Vào năm 1992, bản hợp
đồng bán linh hồn cho quỉ đã lộ rõ hơn bao giờ hết khi Khmer đỏ, do Khieu
Samphan dẫn đầu, công khai trở lại Phnom Penh và được Liên Hiệp Quốc tổ chức
nghi thức dàn chào với “Lực lượng gìn giữ hoà bình” do tướng John Sanderson người
Úc chỉ huy.
Mỉa mai thay, 26 năm sau,
vẫn là chính Liên Hiệp Quốc, qua việc hỗ trợ ECCC mở ra “Phiên tòa lịch sử” ngày
16/11/2018, kết án Khieu Samphan phạm các
tội ác chống lại loài người.
----------
tất cả những tên sát nhân đều phải bị đền tội
Trả lờiXóa