Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

Pháp đánh thuê cho Mỹ và bị Mỹ đá đít ra khỏi Đông dương

 


Ngày 19-12-1946, Cụ Hồ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Tòan dân hưởng ứng, có súng dùng súng, có dao dùng dao. Cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp của nước Việt Nam non trẻ bắt đầu.

Ngày 8-5-1950, Hoa kỳ đứng đầu là Truman, chính thức quyết định viện trợ cho Pháp trong chiến tranh Đông Dương.

Mỹ đã bỏ ra tổng cộng khoảng 3,5 tỷ đô la cho Pháp trong cuộc chiến này. Cụ thể,“Tài liệu mật của Lầu Năm Góc” cho biết, tính đến ngày 21-1-1954, Mỹ đã viện trợ cho Pháp 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 619 máy bay, 390 tàu đổ bộ, 16.000 ôtô, 175.000 súng trường và súng máy, 2.555 triệu viên đạn..

Khi Mỹ đã trả đến 80% chi phí của cuộc chiến, thì "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ". Không phải tôi (Thiên Lý) nói, đó chính là lời thú nhận của Henri Navarre, nguyên là Đại tướng tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.

Vì Pháp chỉ "đánh thuê" cho Mỹ, nên ngay từ đầu có thể thấy Mỹ chính là thủ phạm gây ra chiến tranh lâu dài ở Việt Nam. Không có cái gọi là nội chiến, chỉ có thể gọi đó là cuộc Kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Thậm chí giai đoạn cuối của kháng chiến chống Pháp đã là kháng chiến chống Mỹ rồi.

Navarre viết tiếp:

"Điều nguy hiểm nghiêm trọng nhất của viện trợ Mỹ là, về mặt chính trị, nó làm cho Mỹ nhúng tay ngày càng sâu vào các công việc của chúng ta. Nó làm cho ảnh hưởng của Mỹ thay thế dần ảnh hưởng của Pháp đối với các quốc gia liên kết".

"Dần dần, họ đẩy chúng ta ra ngoài. Nhờ sức mạnh của đồng đô la, họ đã chiếm lấy vị trí của chúng ta, nhưng dưới một hình thức dường như không thấy được. Không có toàn quyền, công sứ, cao ủy Mỹ, nhưng có một đại sứ Mỹ, và không có một điều gì có thể làm được nếu không được ông ta cho phép. Các dân tộc tưởng mình được tự do, mà không thấy rằng mình đã bị tiền bạc chi phối một cách khắc nghiệt, mình chỉ là những con rối của Mỹ”. (Sách Đông Dương hấp hối, NXB Công an nhân dân, 2004).

Ngày 7-5-1954, Pháp đầu hàng Việt Minh tại cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngay sau khi Hiệp nghị Geneve được ký kết, cụ Hồ bảo bác Giáp: "Chú đừng mừng vội, hãy chuẩn bị đánh Mỹ", tư tưởng đánh Mỹ đã có từ khi đó, Nghị quyết 15 là chuyện sau này.

Ở miền Nam, CIA đưa Diệm, tay sai của Mỹ lên làm Thủ tướng rồi sau đó phế truất Bảo Đại, con bài của Pháp. Ngày 26-4-1956, Pháp rút hết quân khỏi miền Nam Việt NamDiệm tuyên bố, biên giới của nươc Mỹ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

Từ 1955 đến 1960, Mỹ nhảy vào chiếm chỗ của Pháp, trực tiếp bỏ tiền "thuê" Diệm "chống cộng". Trong 5 năm, tổng số viện trợ của Mỹ cho Diệm mới chỉ là khoảng 2 tỷ đô la. Mỹ ảo tưởng, cho là "rẻ" hơn so với "thuê" Pháp, (sau này mới biết là lầm).

Vậy là tại Đông Dương, Pháp đã từng bị Nhật "hất cẳng", nay lại bị Mỹ "đá đít" ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Cay không? Có chứ, không cay sao được!

Năm 1961, khi gặp Kennedy, tướng Pháp De Gaulle đã "trù ẻo":

"Người Mỹ các ông, ngày hôm qua, muốn chiếm lấy chỗ của chúng tôi ở Đông Dương. Ngày hôm nay, các ông lại bắt chước chúng tôi nhen lên một cuộc chiến tranh mà chúng tôi đã chấm dứt. Tôi xin nói trước với các ông rằng: Mỗi bước, các ông sẽ ngập thêm vào cái vũng lầy quân sự và chính trị không có đáy, bất kể các ông có thể ném vào đó những tốn thất (nhân mạng) và chi tiêu (tiền của) đến thế nào”. (Hồi ký).

Có lẽ nước Mỹ đã không nghe những lời cảnh báo của De Gaulle. Hoặc Kennedy đã nghe nhưng bị ám sát sớm quá.

Cái gì phải đến đã đến, rạng sáng ngày 30-4-1975, Martin, đại sứ Hoa kỳ tại Sài Gòn và những tên thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng leo vội lên trực thăng, bay thẳng ra biển.

Hơn 20 năm gây chiến, Mỹ đã phải trả một cái giá không thể cao hơn, tốn hơn 160 tỷ đô la. Về nhân lực, có thời điểm Mỹ phải huy động đến 628.000 lính Mỹ tham chiến, tổn thất về nhân mạng là 58.220 lính Mỹ đã bị chết và 305.000 bị thương.


                                                ----------

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

PGS.TS Bùi Hiền qua đời

 


PGS.TS Bùi Hiền, sinh năm 1935 là nhà giáo, nhà nghiên cứu ngôn ngữ và quản lý giáo dục, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Ông qua đời ngày 11/5/2025 tại quê nhà Phú Thọ, thọ 90 tuổi.

Năm 2017, ông đưa ra một đề xuất cải cách cách viết chữ quốc ngữ làm dậy sóng dư luận.

Trong lịch sử gần 400 năm của chữ Việt, đã có khoảng hai chục lần các bậc “tiền bối”, cả Tây lẫn ta, đề xuất ý tưởng “cải cách”, riêng chỉ có PGS. TS Bùi Hiền là bị “đám quần chúng không hiểu gì cứ ào ào vào ném đá” (lời của TS Đoàn Hương).

Cách đây 112 năm, trong bài viết “Chữ quốc ngữ”, trên tờ Đông Dương tạp chí, số 33, năm 1913, ông Nguyễn Văn Vĩnh từng than: “Mấy năm nay có người bàn cách sửa đổi chữ quốc ngữ cho phải lẽ nhưng chẳng lý nào bằng thói quen của người ta, cho nên tuy đã có nghị định y lối Kuốk-ngữ tân-thứk, mà không ai chịu theo, tân thứk lại mang tiếng oan rằng khéo vẽ vời cho nhiễu sự”.

Đề xuất cải cách chữ viết của ông Bùi Hiền cũng mang tiếng oan như vậy.

Hầu hết những người ném đá, giễu cợt, thậm chí rủa xả ông Bùi Hiền đều không để ý rằng nghiên cứu của ông chỉ nhằm thay đổi cách viết cho hợp lý, chứ không phải thay đổi cách đọc.

Từ trước đến giờ, mọi đề xuất cải cách, cả khi có sự ủng hộ của nhà cầm quyền (như Nghị định của chính quyền thực dân Pháp ngày 16-5-1906 thông qua "Kuốk-ngữ tân-thứk" mà ông Nguyễn Văn Vĩnh nhắc tới ở trên) đều không thành công. Mặc dù vậy, chữ viết tiếng Việt vẫn biến đổi dần thành ra lối viết như ngày nay.

Người ta “ném đá”, thậm chí đòi “ỉa vào” đề xuất cải cách của PGS.TS Bùi Hiền, nhưng chính họ vẫn đang áp dụng những “cải cách” tương tự.

Thật vậy.

Để có thể rủa xả ai đó trên mạng bằng tiếng Việt, chắc chắn là bạn phải “viết” tiếng Việt thông qua bàn phím chứ không thể dùng cây bút thông thường. Vậy thì một điều không thể tránh được, là bạn phải biết gõ tiếng Việt theo một trong các kiểu gõ thông dụng hiện nay, như Telex, VNI, hoặc VIQR.

Chẳng hạn, nếu bạn chọn kiểu gõ Telex, thì hai chữ “Tiếng Việt” sẽ được bạn “viết” (gõ trên bàn phím) như thế này: “Tieengs Vieetj”.

Và xin thưa, khi "viết" như thế, thì bạn đã thực hiện việc “cải cách chữ quốc ngữ” theo đề xuất của học giả Nguyễn Văn Vĩnh vào năm 1928, cách đây gần 100 năm. 

Thiển ghĩ, dù bạn không đánh giá cao tính ứng dụng trong nghiên cứu của ông Bùi Hiền, bạn vẫn nên bày tỏ sự tôn trọng đối với tinh thần tự do học thuật và nỗ lực nghiên cứu khoa học của một người mà sự nghiệp hơn nửa thế kỉ luôn gắn bó với công tác đào tạo và nghiên cứu tiếng Việt.

R.I.P ông, PGS-TS Bùi Hiền, vị giáo sư đáng kính.



Thứ Hai, 12 tháng 5, 2025

Đài tưởng niệm Người lính Xô-viết tại Rzhev

 

 


Cứ mỗi ngày 9/5 hàng năm, nước Nga lại long trọng kỷ niệm Ngày Chiến thắng phát-xít Đức và tưởng nhớ hàng chục triệu người con Xô viết đã ngã xuống trong Chiến tranh thế giới thứ 2.

Đài tưởng niệm Người lính Xô-viết tại Rzhev, tỉnh Tver, CHLB Nga được khánh thành ngày 30/6/2020 nhằm vinh danh những người lính Hồng quân đã hy sinh tại một trong những trận đánh ác liệt nhất trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Hồng quân Liên Xô, trận Rzhev (1942-1943).

Tượng đài là tác phẩm của nhà điêu khắc trẻ Andrei Korobtsov, người đã dành ra ba năm để phác thảo, và kiến trúc sư Konstantin Fomin. Bức tượng gười lính cao 25 mét, nặng 80 tấn, được ghép từ 600 chi tiết đồng, đặt trên ngọn đồi cao 10 mét.

Hình ảnh người lính được khắc họa với dáng vẻ oai nghiêm, tay cầm súng, áo choàng rách nát tưởng như đang tan dần vào không trung... Nhưng không, chiếc áo đó đã hóa thành đàn sếu, ẩn dụ cho linh hồn bất tử của người lính Hồng quân, bay lên.

Tượng đài được tác giả lấy cảm hứng từ bài thơ "Đàn sếu" của Rasul Gamzatov và bài thơ "Tôi bị giết ở ngoại ô Rzhev" của Alexander Tvardovsky: 

"Tôi bị giết ở Rzhev

Trên một đầm lầy không tên

Ở cánh trái, đại đội năm

Trong trận tập kích tàn khốc

Tôi đã chết mà không được biết

Rồi cuối cùng Rzhev có về ta?"

Hãy nhìn lên tượng đài, người lính vẫn đang nhìn xuống mảnh đất Rzhev ngày nay như vẫn còn đang lặp lại câu hỏi trong bài thơ ấy?

Tượng đài Người lính tại Rzhev được khánh thành ngày 30/6/2020 bởi Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Belarus Aleksander Lukashenko.

Nước Nga, Belarus và cả Ukraine nữa, đã từng là những người anh em thân thiết mang tên Đại Nga, Bạch Nga và Tiểu Nga trong cùng một đế quốc. Cả ba dân tộc đã từng sát vai trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Hồng quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã trên nhiều mặt trận.

Người lính trên tượng đài mang một cái tên chung là Hồng quân, anh có thể là người Nga, người Belarus, người Ukraine hay bất kỳ một dân tộc khác... đã chiến đấu và hy sinh ở Rzhev hay nhiều mặt trận khác để bảo vệ một Tổ quốc chung - là Liên bang Xô viết.

Không có biên giới nào với đàn sếu, biểu tượng linh hồn, biểu tượng về sự hy sinh của những người lính Hồng quân. Đàn sếu có thể tự do bay từ nước Nga đến Belarus, đến Ukraine hay bất kỳ một nơi nào trên trái đất.

Tuy nhiên, nếu tượng đài này được đặt ở Ukraine, nó chắc chắn sẽ bị kéo đổ. Ukraine đã từng dỡ bỏ nhiều tượng đài thời Liên Xô, trong đó có các tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Hồng quân. Bên cạnh đó họ lại dựng tượng, đặt tên phố, tưởng niệm và phong anh hùng dân tộc đối với tên phát-xít Stepan Bandera, kẻ đã tuyên bố "làm việc chặt chẽ với nước Đức Quốc xã Vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Adolf Hitler để hình thành một trật tự mới ở châu Âu và thế giới...". 

Bandera chính là kẻ đã để lại dấu ấn trong các vụ thảm sát mang tính diệt chủng đối với hàng trăm ngàn người Ba Lan ở Volhynia và ở Đông Galicia trong Thế chiến thứ 2.

Bất chấp những đổi thay trớ trêu của lịch sử, những con sếu trắng vẫn bay trên bầu trời, mang theo linh hồn của những người lính Hồng quân ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Đất nước trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

------------------

 

*Trận Rzhev

Trận chiến Rzhev kéo dài 14 tháng (từ tháng 1/1942 đến tháng 3/1943) là một phần của mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma, nơi Hồng quân Liên Xô phản công để đẩy lùi quân Đức sau khi chúng bị đánh bật khỏi ngoại ô Moscow. Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử, được gọi là "cối xay thịt Rzhev". Hồng quân đã chịu tổn thất khủng khiếp, nhưng chiến thắng tại đây đã giúp bảo vệ Moscow và tạo bước ngoặt trong cuộc chiến chống phát xít Đức. Những người lính từ Nga, Belarus, Ukraine và các nước khác trong Liên Xô cũ đã cùng nhau chiến đấu, thể hiện tình đoàn kết anh em trong thời khắc sinh tử.

Dòng chữ khắc trên phiến đá bên dưới – "Chúng tôi đã ngã xuống vì Tổ quốc, nhưng Tổ quốc đã được cứu" – trích từ bài thơ của Tvardovsky, nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của hơn 1,3 triệu người lính Hồng quân tại mặt trận Rzhev-Vyazma, trong đó khoảng 400.000 người chết hoặc mất tích và 700.000 người bị thương.



Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025

Hai khổ thơ trong bài thơ đàn sếu của Rasul Gamzatov



Ơ Việt Nam, gần 1,2 triệu người con ưu tú đã anh dũng hy sinh trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, để đất nước hôm nay có Hòa bình và Thống nhất.

Còn ở nước Nga, hàng chục triệu người con Xô viết đã ngã xuống trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

Nhà thơ Rasul Gamzatov (Người Daghestan, Liên Xô cũ, tác giả tập truyện nổi tiếng "Daghestan của tôi") đã viết về những người lính hy sinh trong chiến tranh trong bài thơ Журавли - Đàn sếu:

(Xin trích dịch 2 khổ dưới đây:)

Tôi vẫn nghĩ, kìa những người lính trẻ

Từ chiến trường đẫm máu chẳng trở về,

Có lúc họ rời lòng đất mẹ,

Để hóa thành đàn sếu trắng bay đi.

...

Đàn sếu bay trên bầu trời mệt mỏi

Hình mũi tên, trong sương phủ trời chiều

Trong đội hình vẫn còn chỗ trống

Có lẽ nào chỗ trống ấy - dành tôi.

...

Nguyên tác:

Мне кажется порою, что солдаты,

С кровавых не пришедшие полей,

Не в землю эту полегли когда-то,

А превратились в белых журавлей

...

Летит, летит по небу клин усталый -

Летит в тумане на исходе дня,

И в том строю есть промежуток малый -

Быть может, это место для меня!

 

--------------


Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

TƯỢNG ĐÀI CÁC CHIẾN SĨ VIỆT NAM TẠI NGA

 


Ngày 9-5 hàng năm, nước Nga tưng bừng kỷ niệm Ngày Chiến thắng phát xít. Cuộc chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại của nhân dân Xô-viết kết thúc thắng lợi có sự đóng góp không nhỏ của những chiến sỹ tình nguyện quốc tế, trong đó có những thanh niên là người Việt Nam.

Ảnh dưới đây là Cụm tượng đài “Các đồng minh – Chiến sĩ Việt Nam”, được khánh thành ngày 12/8/2024, tại công viên “Ái Quốc” (Patriot),  ngoại ô Moscow, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ tình nguyện quốc tế Việt Nam đã cùng với nhân dân Xô-viết tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941 – 1945).

 



Đại tướng Phan Văn Giang và Thượng tướng Viktor Goremykin, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Quân sự Các Lực lượng vũ trang Liên bang Nga chủ trì lễ khánh thành hôm 12/8/2024. Tham dự sự kiện còn có Thượng tướng Alexander Fomin, Thứ trưởng Quốc phòng LB Nga và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại LB Nga Đặng Minh Khôi.

Cụm tượng gồm 3 bức tượng là tác phẩm của nhà điêu khắc Alexey Chebanenko, khắc họa hình ảnh các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam: Lý Nam Thanh, Lý Anh Tạo và Lý Thúc Chất đã chiến đấu và hy sinh trong cuộc chiến phòng thủ bảo vệ thành phố Moscow.

Trước khi xây dựng, bản phác thảo về cụm tượng đã được phía Nga gửi đến Bộ Quốc phòng Việt Nam để xin ý kiến.

Đây là hình ảnh của ba trong số những thanh niên Việt Nam yêu nước được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt tên và gửi đến Moscow học tập. Khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, họ đã tình nguyện gia nhập Trung đoàn quốc tế thuộc Lữ đoàn đặc nhiệm Bộ binh cơ giới (OMSBON) của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô.

Ngày 12/12/1986, họ đã được Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô đã truy tặng các Huân chương “Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại” hạng Nhất, kỷ niệm chương Chiến thắng phát xít Đức và kỷ niệm chương Lữ đoàn quốc tế....

------------

 

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

ĐẠO DIỄN PHẠM VIỆT TÙNG - ĐI TÌM HAY LÀM RỐI SỰ THẬT?

 

 

Nhân đọc bài báo “SỰ THẬT TRƯA 30/4/1975”- TRUNG TƯỚNG PHẠM  XUÂN THỆ ĐÃ NÓI DỐI 5 LẦN!", do phóng viên Hải Nguyệt thực hiện ngày 2/5/2021, Locliec nhận thấy ông Phạm Việt Tùng đã dùng những luận cứ  rất thiếu thuyết phục để quy kết rằng ông Phạm Xuân Thệ "nói dối 5 lần".

Hãy cùng tìm hiểu các quy kết của Phạm Việt Tùng về những "lần nói dối" hay những "điều nói dối" của ông Thệ theo trình tự của bài phỏng vấn.

Phần in chữ màu nâu là trích dẫn từ bài báo, toàn văn bài báo đã dẫn link ở trên.

Bản tường thuật về các sự kiện trưa 30/4/75 của chính ủy Bùi Tùng ở đây.

Lần (hay điều) nói dối thứ 5:

(Trong bài báo không có lần hay điều nói dối thứ 5, nhưng tạm hiểu vậy, vì ông Phạm Việt Tùng nói, như dưới đây):

PV: - Thưa đạo diễn Phạm Việt Tùng, ông nói ông đã phát hiện trung tướng Phạm Xuân Thệ nói dối 5 lần?

Nhà báo Phạm Việt Tùng: Đúng vậy.

Ông Phạm Xuân Thệ đã nhận mình là người soạn thảo tuyên bố đầu hàng cho Tổng thống Sài Gòn Dương Văn Minh đọc trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào trưa 30/4/1975.

Sự thật là người soạn thảo bản tuyên bố đầu hàng và kêu gọi tướng lĩnh và binh lính Việt Nam Cộng hòa buông vũ khí ngừng chiến là ông Bùi Văn Tùng, lúc đó là trung tá, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203. 

Để che giấu sự nói dối này, trung tướng Phạm Xuân Thệ đã tiếp tục 4 lần nói dối. 

Ở chỗ này, ông Phạm Việt Tùng mặc nhiên áp đặt A nói dối vì B là sự thật mà không cần đến lý lẽ hay luận cứ, nên không có gì để phân tích. Không đưa ra luận cứ, tuy vậy ông Việt Tùng vẫn tính là một "lần nói dối" của ông Thệ.

Tiếp theo, ông Phạm Việt Tùng liệt kể ra bốn "điều nói dối" của ông Thệ (Tít bài là 5 lần nói dối, "lần", chứ không phải "điều") như sau:

"Điều nói dối thứ 1":

"Khi tôi đến gặp ông Phạm Xuân Thệ, cùng với ông Trần Gia Thái, khi đó là giám đốc Đài PT&TH Hà Nội, tôi phát hiện ông Thệ đã nói dối. Ông Thệ không công nhận ông Bùi Văn Tùng có mặt ở Dinh Độc Lập tại thời điểm đó.

"Ông Thệ bảo phải đến 30 phút sau ông mới biết ông Bùi Văn Tùng. Ông Thệ nói: Sau khi áp giải Tổng thống Minh cùng nội các Sài Gòn đến Đài Phát thanh, khoảng 20-30 phút sau ông Tùng mới có mặt tại Đài. Ông Tùng hỏi tôi “Anh là ai?”. Tôi nói “Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó trung đoàn E66...”. Đó là điều thứ nhất ông Thệ nói dối".

"Sau này Tổng cục Chính trị đã xác nhận ông Bùi Văn Tùng có mặt ở Dinh Độc Lập".

"Ông Bùi Văn Tùng có thể không biết hết được những người cấp dưới của ông là ai, nhưng không thể có chuyện những cấp dưới, cấp thấp hơn ông ở xung quanh đó, lại không biết ông Tùng là ai và có cấp bậc gì, đeo quân hàm gì, đang làm chức năng nhiệm vụ gì được".

Đúng là ông Bùi Tùng có mặt tại dinh Độc Lập thật (chỉ cần nhìn ảnh cũng biết, đâu cần phải lôi Tổng cục Chính trị vào). Nhưng ông Việt Tùng nên nhớ rằng hiện tại chưa/không có ảnh/video cho thấy ông Tùng ở trong dinh. Ở ngoài sân thì có.

Nhưng yếu tố tối quan trọng là thời điểm ông Bùi Tùng vào dinh, thì ông Phạm Minh Tùng đã bỏ qua. Cần làm rõ việc ông Tùng vào Dinh trước hay sau ông Thệ. 

a) Nếu ông Bùi Tùng vào dinh trước "cấp dưới". Ông có "đeo quân hàm" không, có công bố với "cấp dưới" về "cấp bậc" và "chức năng nhiệm vụ" của mình không? Không đeo, không công bố thì "cấp dưới" làm sao biết? Trong ảnh/video thì ông Bùi Tùng không đeo quân hàm.

b) Và nếu ông Bùi Tùng vào dinh sau "cấp dưới", mà ông Phạm Việt Tùng lại đòi "cấp dưới" phải biết ông Bùi Tùng thì quá vô lý. "Cấp dưới" có thấy ông đâu mà biết?

Vả lại, không phải cứ "cấp dưới" nào cũng biết mặt (lại còn biết cả "chức năng nhiệm vụ") của cấp trên là ông Bùi Tùng đâu. Mà thực ra về chức vụ, thì ông Thệ cũng ngang cơ ông Bùi Tùng đấy, không hẳn là "cấp dưới" đâu (xin xem ở phần sau).

Lúc bấy giờ, lính xe tăng lữ đoàn 203 nhiều người không biết ông Tùng, đừng nói tới E66. Bản thân ông Bùi Tùng, trong bản tường thuật do chính ông viêt ra, kể về những sự kiện trưa 30/4/75 chỉ nhắc duy nhất đến một "cấp dưới" là anh Phạm Duy Đô, nhưng anh này cũng không phải là lính 203. Trong bản tường thuật này dường như ông Bùi Tùng không có "câp dưới".

Lý lẽ của ông Phạm Việt Tùng không chặt chẽ và một chiều.

Một chiều là vì, Phạm Việt Tùng không tìm hiểu chiều ngược lại, ông Tùng biết ông Thệ khi nào, có khớp với lời ông Thệ kể không? (1)

" Điều thứ 2 ông Thệ nói dối":

"Ông Thệ nói văn bản đầu hàng Tổng thống Dương Văn Minh đọc, phát đi trên sóng phát thanh là do ông soạn ra. Nhưng những lời ông Thệ nhắc lại trong bộ phim do TTXVN phỏng vấn ông Thệ so với bản ghi âm lời ông Dương Văn Minh trưa ngày 30/4/75 không giống nhau. 

Nghe đi nghe lại, tôi thấy nội dung lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh không giống với lời ông Thệ đã nói lúc trước. Tôi phát hiện điều thứ 2 ông Thệ nói dối.

Chúng tôi hiện vẫn còn giữ được ảnh chụp (tại bảo tàng Quân đoàn 2) bản viết tay Lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, nét chữ của ông Bùi Văn Tùng, có cả những chỗ gạch xóa.

Câu chữ trong bản viết tay này rất khớp với lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh đọc đã phát đi trên sóng phát thanh.

Ở cái "điều thứ 2" này, lý lẽ của ông Phạm Việt Tùng cũng thiếu chặt chẽ nhưng lại nhiều quy chụp. Ông Thệ trực tiêp trả lời phỏng vấn của TTXVN, nói vo (không giấy tờ), lại sau những 30 năm, thì làm sao đúng "nguyên văn" được. Nhất là khi ông Phạm Việt Tùng bảo rằng bản ghi âm của ông Nhã là "bản thu âm duy nhất chúng ta có được đến giờ"(2). Nếu thể tất, ông Việt Tùng chỉ nên trách ông Thệ là đã dùng chữ "nguyên văn", thay vì chữ "đại ý". Lấy đâu ra "nguyên văn" khi mà chỉ duy nhất ông Nhã có "nguyên văn"?

Một điểm nữa là ông Phạm Việt Tùng cũng vẫn chỉ xem xét một chiều, một nửa từ phía ông Thệ, nếu xem xét kỹ lưỡng thì bản viết tay của ông Bùi Tùng cũng không hề khớp với lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh phát đi trên sóng phát thanh.

Cái sự "không khớp" ấy đã được chỉ ra trên blog này, tôi không chắc ông Việt Tùng có thực sự đối chiếu giữa văn bản và băng ghi âm không mà lại bảo là "rất khớp" (và "hoàn toàn trùng khớp")?( 3).

"Ông Thệ nói dối điều thứ 3"

"Trong khi đó ông Phạm Xuân Thệ lại không đưa ra được bản viết tay nào, và lời ông Thệ tự công bố nội dung ông viết cho Tổng thống Minh cũng không khớp gì với Tuyên bố đầu hàng Tướng Minh đã đọc. Bộ Chính sử Nam Bộ kháng chiến do Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm Trưởng ban soạn thảo, thiếu tướng Trịnh Vương Hồng-Viện trưởng viện Lịch sử quân đội đã ký, người chắp bút là ông Hoạt... cũng đã công nhận bản viết tay này là chữ của ông Bùi Văn Tùng, do ông Bùi Văn Tùng soạn thảo. Thế nhưng ông Phạm Xuân Thệ vẫn nhận công trạng này về mình. Đó là ông Thệ nói dối điều thứ 3".

Ở đây, cũng không có nội dung gì mới và ông Việt Tùng cùng không cần lý lẽ, ông lấy Bộ sử Nam Bộ kháng chiến để kết luận ngay là ông Thệ "nói dối điều thứ ba". Nếu "sự thật trưa 30-4-75" đã có sẵn trong bộ sử này rồi thì việc ông Việt Tùng "bỏ ra 46 năm đi tìm sự thật" là hoàn toàn vô bổ. Việc "ông Thệ không đưa ra được bản viết tay nào" thì càng chứng tỏ ông Thệ... nói thật, rằng ông ấy đã giặt nó cùng với quần áo. Nếu ông Thệ muốn nói dối, thì ông ấy đã có thể... tự chép lại, vò nhàu.v.v...

Măt khác, cả ba điều mà ông Việt Tùng nêu ra, gồm "điều thứ 3", "điều thứ 2 và "điều thứ 5" (thậm chí cả một phần của "điều thứ 4" nữa) đều chung một nội dung: "ông Thệ nhận mình là người soạn Văn bản đầu hàng". Vậy tại sao nhà báo và ông Việt Tùng không gom vào một "điều" hay một "lần" nói dối, để rồi đưa ra cái tít bài cực bẩn: "Trung tướng Phạm Xuân Thệ nói dối 5 lân"?

"Điều thứ tư ông Thệ nói dối".

"Ông Thệ bảo “Chúng tôi bàn với nhau phân công ông Bùi Tùng”. Nói như thế là ông Thệ không hiểu gì mà lộ ra sơ hở mình nói dối. Vì lúc đó ông Bùi Văn Tùng là Chính ủy Lữ đoàn, người chỉ đứng sau Lữ Đoàn trưởng, người phụ trách về Chính trị cao nhất của phía bên ta ở Dinh Độc Lập lúc đó. Chỉ có ông Tùng mới đủ tư cách là người đối thoại và thực hiện những nhiệm vụ chính trị như thảo văn kiện đầu hàng, rồi tiếp nhận đầu hàng. Mà Lữ đoàn thì là cấp trên của Trung đoàn. Ông Thệ chỉ là Trung đoàn phó một trung đoàn bộ binh phối thuộc, sao đủ tư cách mà đòi phân công cho ông Tùng đi làm việc? Đó là chưa nói đến năng lực, trình độ của một Chính ủy như ông Tùng.

"Trong một bài báo lưu chiểu quốc tế, ông Thệ nói “Chữ tôi xấu nên tôi đọc cho ông Dương Văn Minh chép”. Ông Dương Văn Minh lúc này là đại tướng, mang tư cách là Tổng thống của chính quyền Sài Gòn. Dù đã đầu hàng nhưng ông cũng không thể đi làm một việc vô lý là chép theo lời một đại úy phía đối phương. Ông Thệ cũng không đưa ra được bản viết tay mà ông cho là Dương Văn Minh đã “chép lại”. Kho tàng tư liệu lịch sử cũng không giữ được một văn kiện nào như thế cả. Đó là điều thứ tư ông Thệ nói dối."

"Điều thứ tư" mà ông Việt Tùng nêu ra thực ra có 2 nội dung:

1. Ông Bùi Tùng là Chính ủy Lữ đoàn, ông Thệ chỉ là Trung đoàn phó, mà theo ông Việt Tùng, "Lữ đoàn thì là cấp trên của Trung đoàn", nên ông Thệ không thể phân công ông Bùi Tùng.

Trước hết, ông Thệ không hề nói cá nhân ông phân công ông Bùi Tùng. Ông Thệ nói “Chúng tôi bàn với nhau phân công ông Bùi Tùng”. Phải có cả ông Bùi Tùng và các sĩ quan khác nữa thì mới thành "chúng tôi". Việc hội ý và phân công ông Bùi Tùng tiếp nhận đầu hàng cũng là bình thường và hợp lý, vì (a) ông Bùi Tùng người miên Nam, nói giọng "quân giải phóng" và (b) ông Tùng có quân hàm cao hơn, chứ không phải như ông Việt Tùng ngây ngô cho rằng (vì) "Lữ đoàn thì là cấp trên của Trung đoàn".

Thực chất, Lữ đoàn là đơn vị quân đội ngang cấp Trung đoàn, (nhưng thường đông hơn về quân số). Cũng như Trung đoàn, dưới Lữ đoàn là các Tiểu đoàn(4). Ông Tùng, ông Thệ có thể coi là ngang về chức vụ, chỉ cao thấp về quân hàm.

2. Việc ông Dương Văn Minh chép lại văn bản đầu hàng do ông Thệ thảo là vô lý?

Nhưng chính ông Bùi Tùng cũng tường thuật rằng ông Minh đã phải chép lại văn bản đầu hàng do ông Bùi Tùng thảo, vậy ông Việt Tùng có thấy vô lý không? Ông Bùi Tùng cũng có đưa ra được bản viết tay mà ông cho là Dương Văn Minh đã “chép lại” đâu?. Sao ông Việt Tùng không kết luận ông Bùi Tùng nói dối? Vẫn là cái cách thức chỉ xem xét một chiều, một nửa, phía ông Thệ.

Kết luận:

Ông Phạm Việt Tùng nói đã "bỏ ra non nửa thế kỷ "đi tìm sự thật" nhưng dường như ông chỉ chăm chú tìm sự thật ở một nửa-phía ông Thệ.

Những lý lẽ ít ỏi mà ông Phạm Việt Tùng đưa ra để kết tội ông Thệ nói dối là rất không thuyết phục, (thậm chí ông đã bất cần lý lẽ).

Ông Phạm Việt Tùng quy kết "ông Thệ 5 lần nói dối" thì có đến hơn ba lần (hay ba "điều") là cùng một nội dung. Về bản chất, nếu ông Thệ có nói dối, thì chỉ nói dối duy nhất một "điều" thôi, "điều"đó là: "ông Thệ nhận mình là người soạn Văn bản đầu hàng"

Từ sự gian lận đó, ông Phạm Việt Tùng, hoặc nhà báo phỏng vấn ông, hoặc cả hai ông, đã viết ra một cái tít rât bẩn, có tính nhục mạ ông Thệ.

Bản thân người viết Entry này vẫn cho rằng ông Bùi Văn Tùng là người có sự đóng góp, có thể nói là lớn nhất, trong sự kiện soạn Văn bản đầu hàng để Tướng Dương Văn Minh đọc trên Đài Phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/75. Nhưng "đi tìm sự thật" theo kiểu ông Phạm Việt Tùng thì chỉ là gây rối sự thật mà thôi.

----------------------

(1) Ông Việt Tùng đánh giá bản thu âm của ông Nguyễn Nhã:"Đó cũng là bản thu âm duy nhất chúng ta có được đến giờ". Điều này không đúng, Đài Tiếng nói Nhân dân Tp. HCM cũng có (bản gốc hoặc bản sao, không liên quan tới bản sao của ông Nhã).

(2) Ông Bùi Tùng tường thuật: "Đồng chí cán bộ rất trẻ đó sau này về đơn vị tôi mới biết đó là Đại úy Phạm Xuân Thệ". Đúng là ông Bùi Tùng "không biết" thật cho nên mới để cho nhóm anh Thệ áp giải Tổng thống với Thủ tướng ngụy ra Đài Phát thanh.

Ông Phúc, nguyên chiến sĩ  liên lạc của ông Bùi Tùng kể rằng ông Tài, lữ đoàn trưởng đã rất cáu khi thấy ông Tùng đi cùng nhóm Phạm Xuân Thệ sang Đài Phát thanh.

(3) Xem chi tiêt tại https://locliec.blogspot.com/2025/04/ai-noi-doi.html

Trên phim Sự thật trưa 30-4-75 mà ông Việt Tùng là đạo diễn, nói nguyên văn là "hoàn toàn trùng khớp".

(4) Mời đọc Wiki về Lữ đoàn: Lữ đoàn là một đơn vị biên chế của quân đội, thấp hơn cấp sư đoàn, cao hơn cấp tiểu đoàn, ngang cấp trung đoàn nhưng thường đông hơn về quân số.