Phủ
Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện trong phủ
Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ, đời Lý
đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh Xương, huyện
Thanh Oai khi trước là Thanh Oai (1), huyện Thanh Trì trước kia là Thanh Đàm
(2); chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương (3) nên mới phải bớt nét đổi là
thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn (4) nên đổi ra chữ trì. Còn như trung
lộ sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh
Trì; Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ
Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung
hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm,
huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô
Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt
tên cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ
Giang. Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy
Lộ; Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại
như kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu (5) tiếp
giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ
sông bị nước xói, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc
suốt dọc bến phường Hà Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm
đơn xin tải đá làm mỏ hàn chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói
lở. Ven sông, về phía nam, dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc.
Bởi thế, những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các (6), nhà ở hai dãy phố xen
liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố
phường đô hội cả. Quê ta khi xưa là Hồng Lộ (nay là phủ Bình Giang), sau đổi là
Hồng Châu, lại phân ra làm hai phủ Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh
Giang). Huyện ta làng Bùi Xá có ông Giám sinh tên là Nguyễn Luật; khi nhỏ ra chơi
đùa ở làng ấy, ta thấy có một cái lò đất nung kiểu Trung Hoa, dưới đáy lò có
thấy ghi mấy chữ: “Nhân Hồng phủ, Đường An huyện, Bùi Xá xã, Nguyễn mỗ công
đức”, không biết cái lò ấy là tự đời nào. Huyện ta với huyện Đường Hào khi xưa
hợp lại làm huyện Đường An. Ta thường hỏi cụ Phạm Quý Thích (7) về thời đại
thay đổi, cụ cũng không được tường lắm. Còn như làng Hoa Đường (8) nguyên trước
là Bồng thôn thuộc về xã Ngọc Cục, sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng.
Xem trong “Đăng khoa lục” ghi chép quán chỉ (9) các đấng tiên hiền thì khá biết
rõ.
Làng
Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nguyên trước là xã Ngọc Ổi, sau đổi là xã Nhị Khê,
theo biệt hiệu của một vị hương hiền là cụ Nguyễn Phi Khanh. Cụ Phong sinh ra
ông Nguyễn Trực (10) người huyện Thanh Oai, là bậc ẩn dật không ra làm quan,
biệt hiệu cụ là Bối Khê, nên làng cụ cũng theo biệt hiệu cụ mà gọi là xã Bối
Khê. Khoảng năm Trung hưng, làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm có đào được cái chuông
cổ ở chùa Diên Khánh. Mặt chuông có bài minh: “Đống Ngạch phường, Diên Hựu (11)
tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân (12) thi kim nhất lạng”
(13). Chữ rất cổ; hỏi thì các bô lão nói rằng phường Đống Ngạch xưa là đất làng
Thụy Hương (Chèm) sau mới tách ra làng Đông Ngạc. Còn như chùa Diên Hựu mà đổi
làm chùa Diên Khánh là để tránh phạm húy. Cuối đời Lê, cụ Phan Trọng Phiên có
soạn bài khoán văn về việc trùng tu: “Chung minh Diên Hựu chi niên, tùng mậu
trường thu chi âm” (14) cũng là trở về cái bài minh chùa Diên Hựu là Đông Ngạc
vậy. Huyện Gia Phúc có bốn xã: Đỗ Tùng, Đoàn Tùng, Đào Tùng, Phạm Tùng. Cụ Đỗ
Uông có làm bài ký cầu Phú Cốc (15) gọi là Tứ Tùng, tức là bốn xã trên. Sau để
tránh tên húy Triết Vương (16), nên đổi là Tứ Kha.
Trấn
An Bang vì tránh tên húy vua Anh Tông (17) nên đổi là An Quảng. Huyện Tân An,
Duy Tân, Tân Phúc vì tránh tên húy vua Kính Tông (18) nên đổi chữ Tân ra chữ
Tiên. Đạo Tuyên Quang ở vào đời vua Tương Dực đế (19) gọi là Minh Quang, nay
mới gọi là Tuyên Quang, hoặc bảo là vì tránh niên hiệu Minh Đức (20) nhà Mạc
mới gọi là Tuyên Quang. Song từ đời Lê Thái Tổ, trong sách Thực Lục đã gọi là
Tuyên Quang rồi, như vậy không phải mới đổi từ đời Mạc. Gia Hưng, Quy Hóa, hai
lộ hợp lại làm một, gọi là Hưng Hóa thừa tuyên, chép rõ ở trong sách Phong tục
tổng lục. Thanh Hóa ở đầu đời Lê gọi là Thanh Hoa, đến đời trung hưng cũng gọi
là Thanh Hoa. Vọng Giang về đời Trần là một trấn, khi thuộc đời Minh thì là một
phủ. Tam Giang đổi là Tam Đáp, đều không biết đổi tự năm nào. Cụ Lê Quý Đôn
(21) ở huyện Thiên Hà là bậc học thông minh rộng rãi, làm lãnh tụ trong nho
lâm, khi sang sứ Trung Hoa, có vào yết kiến quan Đề học tỉnh Quảng Tây là Chu
Bội Liên. Ông ta hỏi có chuyện Chiểu Lăng ở bên nước Nam nay thuộc về tỉnh, đạo
nào. Cụ Lê Quý Đôn không thể đáp lại được. Khi trở về, hỏi ra thì chính là
huyện Diên Hà. Năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt (22) có định sửa lại bản đồ trong
thiên hạ, chia phủ Cao Bình (tức là Cao Bằng) gồm bốn châu thuộc đạo Thái Nguyên. Lúc đời Lê mới
trung hưng, người Minh quy định cho họ Mạc ở đất ấy. Họ Mạc giữ đất Cao Bình
bốn mươi bẩy năm. Nạn nội chiến tiếp diễn liên miên. Câu hát “Con cò lặn lội bờ
sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; nàng về nuôi cái cùng con, cho anh
đi trẩy nước non Cao Bằng.” là của vợ các chú lính phải đi chinh chiến lúc bấy
giờ làm ra (23). Khoảng năm Khang Hy (24) đời nhà Thanh, quan trấn thủ Vân Nam
là Ngô Tam Quế làm phản, họ Mạc cứu viện cho Ngô Tam Quế nên triều Lê mới tư
sang Trung Hoa để họ cùng đưa binh sang đánh diệt họ Mạc, rồi đặt Cao Bình là
một trấn, sai ông Võ Công Vinh lên làm Đốc trấn. Về sau, cứ theo thế, sai quan
văn lên làm Đốc trấn, cũng giống như trấn Lạng Sơn, vì Cao Bình, Lạng Sơn bờ
cõi tiếp liền với Vân Nam, Quảng Tây, công văn, giấy tờ đi lại, phi quan văn
thì không làm nổi chức Đốc trấn ấy. Lại như Phú Lương, sau đổi ra Phú Bình, Đà
Dương sau đổi ra Đoan Hùng, Ma Nghĩa sau đổi ra Minh Nghĩa, Cổ Đằng sau đổi ra
Hoằng Hóa, Lương Giang đổi làm Đoan Nguyên (25), Thanh Đàm đổi làm Thanh Cương,
Thanh Miệu đổi làm Thanh Miện, Tế Giang đổi làm Văn Giang, Trường Tân đổi làm
Gia Phúc, Võ Ninh đổi làm Võ Giang, Thanh Liêm đổi làm Thanh Liệm. Cửa bể Thần
Đầu đổi thành Thần Phù, nay đã lấp thành đồng bằng. Cửa bể Đại Ác nay đổi thành
Đại An. Cổ Hiền khi xưa là một huyện, nay gồm về huyện bên cạnh. Hải Đông khi
xưa là một phủ, nay thuộc cả về Trấn Ti. Đại loại như thế rất nhiều, không thể
kể hết. Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu
cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được.
_______
Chú thích:
(1), (2) Trước là chữ Thanh có chấm thủy, nghĩa là trong. Sau, kỵ húy đổi thành Thanh -màu xanh, không có chấm
thủy.
(3) Tức Trịnh Tráng (1623 – 1657).
(4) Tức Lê Duy Đàm (1573 – 1599).
(5) Giang Khẩu, Hà Khẩu: là khu vực phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm (cũ).
(6) Thái Cực nay là sau phố Hàng Bạc và ngõ Sầm Công. Đồng Hà nay là
Hàng Gai, Đông Các nay là Hàng Bạc.
(7) Phạm Quý Thích (1599 – ?) cũng người huyện Đường An, cùng quê với
Phạm Đình Hổ.
(8) Làng Hoa Đường là làng Phạm
Quý Thích.
(9) Quán chỉ là quê quán, thân thế, nói chung.
(10) Nguyễn Trực (1417 – 1473) đậu trạng nguyên năm 1442 đời Lê Thái
tông. Cụ Phong nói ở đây tức là Nguyễn Thi Trung.
(11) Bản dịch viết là Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự.
(12) Bản dịch viết là Tôn Trần.
(13) Quả chuông của chùa Diên Hỗ, phường Đống Ngạch. Năm Diên Hựu thứ
hai đúc xong. Người tín đố làm quan tên là Tống Trân cúng một lạng vàng.
(14) Quả chuông khắc năm Diên Hựu, cây tùng tốt rợp bóng lâu dài.
(15) Đỗ Uông, người huyện Gia Phúc (Vĩnh Phú) đỗ bảng nhãn, làm quan nhà
Mạc, nhà Mạc mất, ông đem các văn thần đến cửa quân nhà Lê xin quy thuận.
(16) Triết vương tức Trịnh Tùng (1570 – 1623) người đánh phá nhà Mạc,
lấy lại Đông Đô lập ra nghiệp Chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. Miếu hiệu của
ông là Thành Tổ Triết vương.
(17) Lê Anh Tông (1557 – 1573) tên húy là Duy Bang.
(18) Lê Kính Tông (1600 – 1619) tên húy là Duy Tân.
(19) Lê Tương Dực (1509 – 1516).
(20) Minh Đức là niên hiệu Mạc Đăng Dung (1527 – 1529).
(21) Lê Quý Đôn (1725 – 1783).
(22) Tức là năm 1491.
(23) Bản gốc viết là do các chinh phu, tức những binh lính đi chinh
chiến xa làm ra.
(24) Khang Hy (1662 – 1720).
(25) Bản dịch viết là Thụy Nguyên.
---------
Phạm Đình Hổ sinh năm
1768, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiều, còn có biệt hiệu là Hy
Kiều Phủ, người đời thường gọi là Cụ Tế Đan Loan. Ông quê ở xã Đan Loan,
huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân
Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Nhà ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ
Xương, phủ Hoài Đức, thuộc thành Thăng Long.
Tác phẩm:
Vũ trung tùy bút, Nhật dụng thường đàm, Đông Dã học ngôn thi tập, Bạn tiếp tồn
phụng, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án)...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét