1. Pétain
Thống chế Philippe Pétain, người từng được tôn vinh là anh hùng của nước
Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới lần I, do đã chỉ huy quân đội Pháp bảo vệ thành
Verdun trước cuộc tấn công dữ dội của quân Đức vào tháng 2/1916, trận chiến này
đã gây ra thương vong cho khoảng 250.000 người ở mỗi bên nhưng sau cùng, người Pháp đã
chiến thắng.
Hai mươi bốn năm sau, cuộc chiến tranh thế giới lần II nổ ra,
tháng 5/1940, quân Đức xâm lược Pháp một lần nữa. Sau cuộc gặp với Hitler,
Pétain đã công khai kêu gọi hợp tác với Đức quốc xã và chính phủ Vichy do Pétain
cầm đầu đã ký Hiệp định đình chiến 22/6/1940, theo đó, Đức quốc xã được quyền kiểm
soát đến 3/5 lãnh thổ nước Pháp. Ghi chép của đại sứ Đức năm 1942 cho thấy chính
quyền Vichy "sẵn sàng loại bỏ người Do Thái bằng mọi cách, mà không cần
quá ồn ào".
Phong trào Kháng chiến do tướng Charles de Gaulle lãnh
đạo ra đời. Phía bên kia là Đức quốc xã và những kẻ hợp tác với Đức.
Vào tháng 8 năm 1944, quân Đức đã đưa Pétain và các bộ trưởng
Vichy khác chạy sang Đức. Một chính phủ danh nghĩa của Pháp được thành lập tại một lâu
đài cũ ở Sigmaringen. Chính phủ này nhanh chóng sụp đổ và không
lâu sau, thống chế Pétain bị quân Đồng minh bắt đưa trở về Pháp để xét xử vì
tội phản quốc.
2. Gia Long
Gia Long khi chưa lên ngôi
vua, thì được gọi là Nguyễn Ánh.
Năm 1784, Ánh sắm "cây vàng cây bạc" vào chầu vua Xiêm (bunga mas dan perak, cống phẩm tượng trưng cho sự thần phục mà các chư hầu phải dâng lên vua Xiêm) xin đưa quân sang đánh Tây Sơn. (Tổng cộng, Ánh đã 6 lần dâng cây vàng cây bạc lên vua Xiêm và cũng giữ luôn "kỷ lục" là người Việt đầu tiên và duy nhất bái Xiêm là Thiên triều)
Vua Xiêm cử Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem mấy vạn quân thủy bộ cùng với tàn quân của Nguyễn Ánh tiến về Gia Định. Quân Xiêm đi đến đâu cướp giết đốt phá đến đấy, tàn ác đến nỗi chính Ánh phải thừa nhận và sau này, sử nhà Nguyễn cũng không lờ đi được.
Đêm 19 rạng ngày
20/1/1785, Nguyễn Huệ đem quân đánh trận Rạch Gầm - Xoài Mút lừng danh, đập cho
liên quân Xiêm-Ánh một trận tơi tả không còn mảnh giáp (phiến giáp bất hoàn), Ánh lại phải đu càng ngoại bang.
Năm 1787, Ánh ký Hiệp ước
Versailles với nước Pháp, định đổi Đà nẵng, Côn Lôn lấy 4 chiếc tàu chiến cùng
1.200 bộ binh, 200 pháo binh và 250 lính mọi... để đánh nhau với quân Tây
Sơn. Cho dù hiệp ước này sau đó không được thực hiện, nhưng sự bất thành của nó hoàn
toàn không phải là do ý chí chủ quan của Ánh. Nên nhớ, lúc bấy giờ Ánh chưa làm
vua, thì đất đai bờ cõi thuộc sở hữu của vua Lê chứ không phải là của Ánh.
Năm 1789, quân Thanh chiếm
đóng thành Thăng Long, trong khi Nguyễn Huệ lãnh đạo quân dân đánh tan quân xâm
lược thì Nguyễn Ánh lại tìm cách nuôi giặc. Sách Đại Nam thực lục ghi : “Mùa hạ năm Kỷ dậu, vua nghe tin
người Thanh đem quân Lưỡng Quảng vì nhà Lê mà đánh giặc Tây Sơn, bèn sai sứ thần
là bọn Phan Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang Thanh và đem 50 vạn cân gạo giúp
lương cho quân [Thanh]. Gặp bão đắm cả ở biển lâu không nghe tin tức".
Như vậy, khi nói "Nguyễn
Ánh cõng rắn cắn gà nhà" thì điều đó là tuyệt đối đúng, còn có gì để bàn cãi?
Thế còn Gia Long khi lên
làm vua thì có công gì? Nay có người bảo, Gia Long có công lớn nhất, là đã thống
nhất đất nước sau hàng trăm năm nội chiến Đàng ngoài, Đàng trong. Người khác thì nhìn ra người anh hùng Quang Trung vắn số mới là người tả xung hữu đột, đánh Nam, dẹp
Bắc, diệt quân xâm lược thống nhất đất nước. Nguyễn Ánh chỉ là người tiếp quản
cơ đồ mà Quang Trung để lại.
Liệu việc thống nhất đất nước có là mục tiêu mà Nguyễn Ánh đặt ra? Khi mà Ánh cho chở gạo ra Bắc giúp quân xâm lược Mãn Thanh. Hành vi này thể hiện ý chí của Ánh chỉ mong quân Thanh chiến thắng ở Đàng ngoài, dù để chiếm đóng lâu dài hay (dưới danh nghĩa) dựng lại vua Lê, thì Ánh vẫn còn cơ may làm chúa ở Đàng trong. Giả sử sự việc xảy ra đúng như mong ước của Ánh, thì đất nước tồn vong còn chưa biết, nói gì đến thống nhất? Việc chinh phạt hết quân Xiêm rồi đến quân Thanh rõ ràng là công lao của Nguyễn Huệ, trong khi đó Ánh chỉ nhăm nhăm làm việc ngược lại, là cố rước quân xâm lược nhằm chia cắt đất nước, từ đó tìm cơ hội phục hồi lợi ích dòng họ.
Người ta lại bảo Gia Long "có
công đặt quốc hiệu Việt Nam". Nói cho chính xác thì Gia Long chỉ có công "xin"
chứ đã đủ tuổi để "đặt" quốc hiệu đâu? Năm 1802, Gia Long lên ngôi, soạn biểu, sai
sứ mang sang triều đình Mãn Thanh, chả hiểu sao lại xin đặt quốc hiệu là Nam
Việt, (chứ không phải là Việt Nam đâu nhé). Nam Việt đã là tên nước ta đã có từ
2000 năm trước rồi, tức là từ thời Triệu Đà (207-TCN)...
Thực tế, người thực sự "có
công đặt quốc hiệu Việt Nam" chính là Càn Long của nhà Mãn Thanh, vì đây
là cái quốc hiệu do chính y "ban" cho Gia Long. Cũng cần phải nói thêm, hai chữ Việt
Nam dùng để chỉ đất nước ta cũng đã xuất hiện trong các văn tự, bi ký của tiền
nhân nhiều triều trước rồi, đâu phải chỉ đến khi Càn Long "ban cho" Gia Long thì mới
có(*).
3. Bào chữa
Ngày nay, để bào chữa cho Nguyễn Ánh, vài nhà ngâm kíu sử nước ta lý luận rằng trong bối cảnh lịch sử hai trăm mấy chục năm trước, thì việc Nguyễn Ánh "cõng" giặc về đất nước là việc sống còn, là việc "chẳng đặng đừng" thôi mà, sao lại kết tội "cõng rắn cắn gà nhà" (!?).
Trong phiên tòa kéo dài từ ngày 23/7 đến 15/8 năm 1945, để bào chữa cho Thống chế Philippe Pétain, các luật sư cũng đã lập luận tương tự rằng "trong hoàn cảnh bắt buộc, Pétain đã làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích của Pháp và trên thực tế đã giúp nước Pháp tồn tại".
Tuy vậy, với 20 phiếu thuận và 7 phiếu chống, Pétain bị Tòa án nước Pháp kết tội phản quốc, âm mưu lật đổ nền Cộng hòa và sỉ nhục nước Pháp (indignité nationale) và bị kết án tử hình, tịch thu tài sản. Sau đó, tướng de Gaulle với tư cách là Tổng thống lâm thời, xét tới công lao của Pétain với đất nước trong Thế chiến I, đã giảm án cho ông xuống thành tù chung thân.
-----------------
(*) Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay
không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2
chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rõ ràng trong tác phẩm
của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu
tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ
xây nền". Hai chữ "Việt Nam" còn xuất hiện trên một số
tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như
bia chùa Bảo Lâm (1558)
ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội,
bia chùa Phúc Thánh (1664)
ở Bắc Ninh...
Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670)
ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc
ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ
phương Bắc).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét