Nguyễn Phúc Hồng Bảo sinh ngày
29/4/1825, là con trưởng của vua Thiệu Trị. Nghĩa là, cũng như Tự Đức, anh phải
gọi Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) bằng cụ cố.
Tuy sinh sau Gia Long - Nguyễn Ánh đến
hơn một lục thập hoa giáp, chính xác là 63 năm, nhưng "con nhà tông không
giống lông cũng giống cánh", Hồng Bảo giống hệt ông cố anh, ở cái đức "cõng
rắn..." và "rước voi...", à mà thôi.
Hồng Bảo lớn hơn người em thứ hai là
Hồng Nhậm (tức là Tự Đức sau này) bốn tuổi. Cứ theo lẽ thường thì vua Thiệu Trị phải
truyền ngôi cho con trưởng là Hồng Bảo, chứ không phải là Hồng Nhậm mới đúng
bài đúng vở.
Thế nhưng, khi Thiệu Trị băng hà ngày
4/10/1847, bá quan, đứng đầu là đại thần Trương Đăng Quế tuyên đọc di chiếu của vua Thiệu Trị tại điện Cần-Chánh, thì cái tên bất ngờ được xướng lên, lại là
Hồng Nhậm. Hồng Bảo ức quá, thổ ra hơn một đấu huyết, rồi ngã vật ra giữa sân
chầu. Chuyện không nói nữa.
Hồng Nhậm kế thừa ngôi vua, lấy niên
hiệu là Tự Đức, thành ra chúng ta biết đến vua Tự Đức.
Tự Đức, văn hay chữ tốt, tự nhận mình là "khí huyết vốn yếu đuối, thân thể
thường gầy gò", còn thế phả họ Nguyễn Phúc chép rằng Hồng Bảo “là người khỏe mạnh, có học nhưng tính tình
phóng túng, ít chịu gò bó vào khuôn phép". Vì vậy trong cuộc đời ngắn
ngủi hai mươi chín mùa lá rụng của mình, anh đã hai lần bị triều đình Huế bắt, vì
tội "mưu phản", giành lại ngôi báu.
Hồng Bảo bị bắt giữ lần đầu vào cuối
năm 1851, trong khi đang sửa soạn trốn sang
Singapore để cầu cứu người Anh.
Thực ra thì ngay sau khi mất ngôi vua
về tay Tự Đức chừng một năm thì Hồng Bảo đã tập hợp được lực lượng và vận động
các cha cố người Pháp, lôi kéo các tín đồ Thiên Chúa giáo làm hậu thuẫn cho cuộc mưu
phản, với lời hứa “sẽ không chỉ để cho
tín đồ được tự do hành đạo mà còn dùng thế lực của mình để biến cả nước thành
Thiên Chúa giáo” (thư của Giám mục Pellerin đề ngày 26/11/1848). Nhưng cơ duyên với người Pháp chưa tới, nên
anh đành phải xoay sang cầu viện người Anh. Ngày xưa, năm 1785, cụ cố anh cũng vậy thôi, trong khi chờ tàu chiến và viện binh người Pháp, thì cụ tạm "cõng" vài vạn giặc Xiêm sang "cắn" đất nước mình cái đã. (Và đã bị Quang Trung - Nguyễn Huệ đánh cho "phiến giáp bất hoàn" trong trận Rạch Gầm- Xoài Mút).
Một người Pháp đương thời sống ở Huế,
tên là Galy, cho biết: “Cuối năm 1851,
nhân Tết âm lịch, ông (Hồng Bảo) bị bắt trong khi sửa soạn một cuộc đi trốn. Ông có ý định
sang Singapore cầu viện người Anh. Một chiếc tàu nhỏ đổ ở dòng sông chảy ngang
ngoài Kinh Thành. Còn chiếc tàu lớn sẽ chở ông qua Singapore thì đậu ở một cửa
bể lân cận. Tàu và ghe thuyền bị tịch thu, khí giới và các thứ cần dùng đã tích
trữ khiến người ta không thể nào không nghi ngờ về ý định của ông được".
Khi bị quan quân triều đình Huế phát hiện, Hồng Bảo bèn xõa tóc, mặc
áo tang, ẵm đứa con trai tên là Nguyễn Phúc Ưng Đạo vào triều, khóc lóc thú nhận tội trạng
trước chú em còi cọc Tự Đức, để mong được tha tội.
Tuy được Tự Đức ân xá và đối xử khá là
tử tế nhưng Hồng Bảo không thể nguôi ngoai quên đi ngai vàng ngôi báu? Anh tiếp
tục lén lút chiêu mộ bè đảng, uống máu ăn thề, cử người thân tín sang Xiêm La
và Căm bốt cầu viện. Đầu năm 1854, thì anh bị bắt lần thứ hai và bị giam
vào nhà đá. Lần này, triều đình kết án anh tội "mưu phản", hình phạt là
lăng trì (nghĩa đen, là xẻo từng miếng thịt một cách chậm rãi). Nhưng chú em Tự
Đức vẫn còn thương ông anh thiệt thòi vì bị mất ngôi, nên giảm xuống án chung thân. Vài hôm sau, (sử chép rằng) Hồng Bảo tự thắt cổ ở trong ngục, nhưng
hỡi ôi, người đời khẳng định rằng anh bị chúng nó giết.
Mặc dù chết rồi, nhưng Hồng Bảo (và con
trai trưởng của anh là Ưng Đạo) vẫn bị vĩnh viễn khai trừ ra khỏi dòng họ
Nguyễn Phúc, đổi sang họ mẹ là họ Đinh. Đinh Đạo sau này (năm 1866), cũng bị
triều đình Huế xử tử nốt, do "dính dáng", mà thực ra là chả dính dáng
gì, đến cuộc khởi nghĩa Chày Vôi, khởi đi từ công trình xây dựng lăng Vạn Niên, còn gọi là lăng Tự Đức. Câu ca dao "Vạn Niên là Vạn Niên nào, thành xây xương
lính, hào đào máu dân..." từ đó mà ra.
Trở lại chuyện Hồng Bảo, như đã nói ở
trên, Hồng Bảo tuy sinh sau cụ cố Gia Long - Nguyễn Ánh đến hơn sáu mươi năm
cuộc đời, nhưng lại thừa kế được tuyệt đỉnh công phu của cụ cố, đặc biệt là võ công "cõng
rắn...", "rước voi...", à mà thôi.
Cụ cố anh đã từng mượn hơi cố đạo
Pháp để lấy lại ngôi báu, thì anh cũng. Chẳng những noi gương cụ cố, anh lại có
phần "hậu sinh khả ố" hơn cả tiền nhân.
Cụ cố nhà anh dù đã có tài
"cõng" Pháp "rước" Xiêm và "cõng" gạo nuôi Thanh nhưng
dường như chỉ với một tầm nhìn thiển cận. Còn anh, ngoài Pháp và Xiêm, anh còn
có thêm những bước đi táo bạo. Anh mở rộng phạm vi cầu viện từ đế quốc Anh xa tít đến
vương quốc Cao Miên hàng xóm.
Chúng bảo cụ cố nhà anh có công, thử hỏi công lao "cõng, rước" của anh há kém cạnh gì cụ cố?
Thế mà, thương
thay, số anh đen, quả thật đen như đôi mắt chị Dậu trong đêm ba mươi âm lịch!
Anh bị chúng thủ tiêu ở trong tù, vợ
anh, con anh sau đó, rồi cũng bị chúng xử chém.
Thật oái oăm, chúng lôi anh (và cả con anh sau này) ra kết tội
"Mưu phản". Mà theo điều 224 bộ Hoàng triều luật lệ, thì: "Phàm kẻ mưu phản, gài mưu trong nước, nghe
lệnh nước ngoài, chỉ là cùng mưu không chia cầm đầu hay tòng phạm thì cũng đem
chém cả..."
Khốn nạn thân anh, bộ
luật này còn có tên là bộ luật Gia Long, bởi cụ cố anh đã đích thân ban hành nó, vào năm
1813.
Cho nên, trước khi anh chết, thế nào anh cũng phải hét
lên, ít nhất đôi lần:
Tao với cụ cố, đã biết thằng nào tội to
hơn thằng nào?
Thằng nào tội to hơn thằng nào???
----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét