Mấy đời bánh đúc có xương?
----------
Toàn quyền Đông dương Paul Doumer (1897 - 1902) |
Thời Pháp thuộc, ba nước Việt, Miên và Lào nằm trong
Liên bang Đông Dương do người Pháp
lập ra. Riêng nước ta bị chia thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác
nhau, trong đó Nam kỳ là xứ trực trị, Trung kỳ và Bắc kỳ là xứ bảo
hộ.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương là một viên chức Pháp, được gọi
là Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur Général
de l'Indochine). Tuy trên danh nghĩa ba nước còn có ba ông vua ngồi
đó, nhưng quyền uy quan Toàn quyền còn lớn gấp ba lần ba vua cộng
lại.
Trong số các Toàn quyền Đông dương thì Paul Doumer (giữ
chức vụ từ 1897 đến 1902) để lại nhiều dấu ấn hơn cả. Dân ta gọi theo
đúng giọng Parisiens là ông Đù me đại nhân.
Trước khi sang Đông Dương, Paul Doumer vốn là đương kim Bộ
trưởng Bộ Tài chính của “nước mẹ” Đại Pháp. Lắm tài nhưng cũng
nhiều tật, lại thuộc nhóm cấp tiến, Doumer hăng hái đòi chính phủ
phải thu thuế lợi tức để bù vào ngân khố thâm thủng. Đề án lập ra,
đám thượng viện, hạ viện và cả nội các đều soi ra “đối tượng” phải
nộp thuế là chính mình nên hoảng hồn, bác đề án và mưu toan tống
cục nợ đi cho khuất mắt. Đúng lúc viên Toàn quyền Đông Dương bấy giờ
là Armand Rousseau vừa ngủm vì bịnh kiết, và Paul Doumer sau ít nhiều
do dự cũng bằng lòng thế chỗ.
Được bổ nhiệm ngày 27-12-1896, ngày 13-2-1897, Paul
Doumer đặt chân xuống Sài Gòn.
Sài Gòn bấy giờ đã là một đô thị sầm uất được quy
hoạch theo kiểu Âu với một số công trình kiến trúc hoành tráng theo
phong cách Pháp - Ý. Nhiều người Việt đến giờ vẫn còn ăn theo niềm tự
hào “Hòn ngọc Viễn Đông” và muốn quên chuyện người Pháp đã mài xương
máu dân Annam mà làm nên “ngọc”, duy kẻ thụ hưởng “hòn ngọc” thì khi
ấy chỉ là các ông Tây. Xứ Nam kỳ là xứ trực trị, Sài Gòn được coi
là một đơn vị hành chính thuộc Pháp (commune Francaise) mà người Việt
dịch ra là “xã Tây”. Đứng đầu “xã Tây” là một Xã trưởng (maire) và
dưới đó là một Hội đồng hơn 20 người, hầu hết là Tây (một vài người bản xứ có thể tham gia, nhưng phải là "dân có máu mặt", vì phải ký quỹ một khoản tiền lớn, như ông
Trương Vĩnh Ký).
Cho đến khi đó, vì Sài Gòn là đất thuộc Pháp, là “con đẻ” nên được “ưu ái” tập trung “đầu tư” còn hai
xứ bảo hộ Bắc kỳ và Trung kỳ, là “con nuôi, con ghẻ” thì dường như vẫn còn
bị "ghẻ lạnh" trong sự thờ ơ của “nước mẹ”.
Dinh Xã Tây được thiết kế theo phong cách kiến trúc Pháp - Ý và bác culi xe có nên tự hào thái quá về "Hòn ngọc Viễn Đông" không nhỉ? |
Thậm chí, khi biết Paul Doumer được bổ nhiệm chức vụ
Toàn quyền Đông Dương, viên “xã trưởng” Sài Gòn và chủ tịch Hội đồng
Thuộc địa là Paul Blanchy, (làm giàu nhờ việc thầu khoán các công
trình công cộng tại thuộc địa) đã chạy đôn chạy đáo mở một cuộc vận
động ngay tại chính quốc đòi ly khai xứ Nam kỳ ra khỏi Liên bang Đông
Dương, đồng nghĩa là thoát ra khỏi ảnh hưởng của tân quan Toàn Quyền vốn có tiếng là độc tài.
Doumer tuyên bố thẳng thừng, nếu Bộ Thuộc địa để cho điều đó xảy
ra, ông sẽ từ nhiệm, còn với cương vị hiện có của mình thì
ông, duy nhất là người đủ thẩm quyền quyết định về số phận của Sài Gòn.
Paul Doumer không che dấu quan điểm của mình là nước
Pháp sẽ không tiếp tục “biệt đãi” riêng với Sài Gòn như cũ, thậm chí
là phải xiết chặt hơn nữa các nguồn chi “đặc quyền đặc lợi” của cái
Hội đồng thành phố này. Hà Nội, Hải Phòng cần được ưu tiên hơn để phát
triển thành các trung tâm có vai trò xứng đáng trong xứ Bắc kỳ và
rộng ra, là toàn cõi Đông Dương. Đó mới là nơi đặt bàn đạp để nước Pháp thần thánh bành trướng
sang thị trường Trung Quốc. Chính Trung Quốc mới là “giấc mơ” của người
Pháp từ hàng nhiều chục năm nay, khi họ nhầm tưởng có thể thông thương tới
Vân Nam qua ngả sông Hồng (và cả sông Mekong) và đó chính là lý do "cao quý" mà người Pháp viện ra khi đánh chiếm Bắc kỳ. (Nói về điều này,
cụ Vương Hồng Sển có khôi hài chua chát rằng than ôi, giá như thời đó
các ông Tây thực dân kém dốt địa lý hơn một tý, thì nước tôi đã
không phải đeo cái ách thực dân ngót trăm năm).
Để làm được điều đó cần phải có một hệ thống
đường sắt xuyên Đông Dương và sẵn sàng kết nối với Vân Nam. Không trông
đợi vào thuộc hạ, Doumer quyền to
hơn vua không quản gian khó hiểm nguy, đích thân cưỡi ngựa đi “phượt” xuyên Việt, khảo sát tìm
hiểu địa bàn trước khi xét đồ án thiết kế.
Cùng đi với Doumer duy nhất có viên Thiếu tá cận vệ
Nicolas. Hai thầy trò ròng rã vượt qua chặng đường dài trên 800 km từ
Hà Nội vào đến Đà Nẵng trong vòng một tuần, trung bình mỗi ngày đi
hơn trăm cây số. Hành lý gọn nhẹ bỏ không đầy một cái túi da (serviette) đeo
hông ngựa. Không nghi lễ đón tiếp, không võng lọng, cờ xí, trống kèn và tiệc
tùng, ngài Toàn quyền chỉ yêu cầu các quan Nam triều sắp đặt tại mỗi trạm dịch có sẵn đôi ngựa khỏe thay cho ngựa mỏi, vài tên quân lính biết săn sóc ngựa và
rành rẽ đường xá để chỉ dẫn nếu cần. (Chỗ này các quan ta nên học).
Câu chuyện về chuyến đi đội nắng, dầm mưa, vượt lũ và ăn
bụi nằm bờ này được ông ghi lại trong cuốn hồi ký L’Indochine Française (Souvenirs) Nhà xuất bản Vuibert &
Nony, Paris in năm 1903. (Cuối tháng 12-2015 mới có bản dịch tiếng Việt do Công ty cổ phần sách Alpha và Nhà xuất bản Thế
Giới ấn hành)
Sau chuyến đi đó, trong suốt thời gian hơn 5 năm tại
nhiệm, Paul Doumer xây dựng hoàn thành 1650km đường sắt xuyên Việt và từ
Hà Nội vươn dài nối với Côn Minh - Trung Quốc, trong đó có những cây cầu
đường sắt nổi tiếng đến nay là cầu Long Biên (Hà Nội), cầu Hàm Rồng
(Thanh Hóa), cầu Tràng Tiền (Huế) và cầu Bình Lợi (Sài Gòn). Ngoài
đường sắt ra, Doumer còn cho mở mang những con đường bộ từ Hà Nội đi
Cao Bằng, Đà Nẵng – Huế, Phan Rang – Đà Lạt và từ Đông Hà sang Lào.
Riêng cây cầu thép vượt sông Hồng, được xây dựng trong hơn
3 năm (9/1898 – 2/1902) theo thiết kế của hãng Daydé et Pillé (không
phải hãng G. Eiffel nổi tiếng như một số ít người vẫn lầm tưởng) là một trong số
bốn cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Cầu dài 1680m, gồm 19
nhịp sắt kiểu Cantilever, 20 trụ móng được đặt sâu dưới 30m nước với
tổng chiều cao là 43,5m. Phía hữu ngạn còn thêm 800m cầu dẫn trên cao
(cầu cạn) nằm vượt trên các mái nhà phố đường Phùng Hưng. Trước đó,
từ 1893, chỉ có một đò máy chạy bằng hơi nước dành cho người Âu và
người Annam giàu có qua sông.
Hãng Daydé et Pillé thiết kế và chế tạo, thợ Việt ráp và xây mố |
Cầu Paul Doumer, giờ mang tên là cầu Long Biên |
Ngày “tam nhị” 02-2-1902, cầu được chính thức khánh
thành và mang tên Paul Doumer từ đó cho đến tháng 7-1945, Pháp bị Nhật
đá đít, thị trưởng Hà Nội là bác sĩ Trần Văn Lai đổi tên thành cầu
Long Biên như còn đến bây giờ. (Năm
1974, thầy Lạn, dạy tiếng Pháp tụi tôi giảng rằng, “Long” ở đây hoàn
toàn không dính dáng gì đến con “rồng” xứ Việt, cái tên cầu tưởng
là Việt hóa ra lại vẫn có xuất xứ từ chữ Tây, là “longe et bien”, nghĩa
là “dài và tốt” được đọc Việt hóa thành “long biên”. Và nhắc đến
cây cầu dài (longe) này, nay cũng xin ghi vào đây, là vào cái hồi còn
bao cấp, thường vẫn thấy một đội công nhân duy tu bảo dưỡng cầu, quanh
năm và hàng ngày chỉ làm mỗi việc cạo rỉ và sơn. Tốp cạo đi trước,
tốp sơn nối đuôi, bắt đầu từ phía Hà Nội sang Gia Lâm và vừa khi các bác thợ sơn còn đang loay hoay bôi bôi nhịp cuối thì các chú thợ cạo đã trở về hì hục
xóa xóa nhịp đầu. Cầu dài quá, nên sơn đầu kia còn chưa kịp khô thì đầu này
đã kịp rỉ sét rồi).
Việc xuất thân là con trai của một bác cai đường sắt bên "mẫu quốc" cộng với sự quá nhiệt thành trong công cuộc xây dựng hệ
thống đường sắt Đông Dương khiến cho báo chí Pháp thời đó mỉa mai gọi
Doumer và thuộc cấp là “bọn theo chủ nghĩa đường sắt”.
Hà Nội cũng được Doumer quan tâm đặc biệt khi ông cho thành
lập ở đây trường Viễn Đông Bác cổ (École
francaise d’ Extrême – Orioent, (EFEO), thành lập 15-12-1898) sau đó được
nâng cấp thành cơ sở khoa học trực thuộc quan Toàn quyền. Trường trở
nên nổi tiếng khi có nhiều công trình nghiên cứu xuất sắc và góp
phần không nhỏ trong việc phục hồi và bảo tồn các các cổ vật bản
địa (đặc biệt là Khmer và Cham) khỏi chính sự cướp phá của những
người Pháp thực dân.
Doumer cũng không ngần ngại khi ông chọn địa điểm xây
dựng các trường cao đẳng đầu tiên trên xứ Đông Dương tại Hà Nội là trường
Y và trường Công chánh (lần lượt vào tháng 1 và tháng 2 năm 1902). Đối
tượng hướng tới là con cái các ông đồ ông bảng xứ Bắc vốn thừa chữ
nhưng quá thiếu tiền, không đủ sở phí học xa như con các ông điền chủ
Nam kỳ. Hơn thế, thấy xa hơn những người tiền nhiệm, Doumer biết rằng
duy Hà nội mới là vị trí “đắc địa” cho việc “câu kéo” đám thanh niên
bên Tàu qua học:
"Bắc Kỳ không chỉ cho phép
nghiên cứu các bệnh của vùng nhiệt đới Viễn Đông mà còn cả các bệnh riêng cho
mùa lạnh. Hơn nữa, Bắc Kỳ tiếp giáp với Trung Hoa là nơi mà ảnh hưởng của nền Y
học chúng ta đang ngày càng tăng cường. Đó là sự xâm nhập hữu hiệu nhất và cũng
vinh dự nhất”
(Trích biên bản phiên họp Hội đồng Tư vấn Tối cao Đông Dương -1898, mà Doumer là
chủ tịch).
Cùng với Hà Nội, Doumer còn mở mang cảng Hải Phòng
và đích thân khảo sát cao nguyên Langbiang. Và theo đề nghị của bác sĩ
Yersin, ông lập ra thành phố Đà Lạt, nơi nghỉ dưỡng cho người Âu để họ khỏi
tiêu tốn ngân sách khi trở về nước Pháp hưởng chế độ nghỉ mát
hàng năm.
Paul Doumer sang cai trị xứ Đông Dương năm ấy mới tuổi
38. Nghị lực lớn, quyết đoán, tầm nhìn xa và sức làm việc phải nói là phi thường, lại
có tiếng là liêm khiết và không vụ lợi, hơn hẳn đám tiền nhiệm chỉ
biết hùng hục hút máu dân bản xứ và tha của về chính quốc.
Một cây cầu khác ở phố Cầu Đất - Hải Phòng từng mang tên Paul Doumer, bị tháo dỡ vào năm 1925 và đã bị quên lãng |
Cho dù với động cơ gì phía sau, khách quan mà xét, những
cấu trúc hạ tầng hữu ích mà Paul Doumer để lại đã góp phần mở mang nước Việt
về kinh tế, xã hội, văn hóa, chúng ta kế thừa và ghi nhận điều đó.
Nhưng đừng có ngủ mơ mà cho rằng Paul Doumer là một
người bảo vệ một thứ “dân chủ” nào đó, vì cái thứ xa xỉ đó chưa
bao giờ có mặt ở thuộc địa và cũng chẳng phải là Đù me Đại nhân quan tâm lo
lắng cho những người dân bị bóc lột bởi chính nền bảo hộ mà ông là
đại diện tối cao. Ông chỉ phụng sự cho quyền lợi tối thượng của nước
Pháp của ông mà thôi.
-------
Tài liệu:
Người Pháp và người Annam – Bạn
hay thù? - Philippe
Devillers, Nhà Denoel xuất bản tiếng Pháp năm 1998, Ngô Văn Quỹ dịch,
NXB tổng hợp Tp. HCM in và xuất bản năm 2006.
Dỡ mắm (Di cảo) – Vương Hồng Sển, NXB Trẻ in và
xuất bản 2014.
Cảm ơn Cụ Lý!
Trả lờiXóaNhững vấn đề thuộc về Lịch sử như này đâu phải ai cũng biết?
http://googletienlang2014.blogspot.com/2015/12/u-me-cong-tich.html
Cô Tiên đừng quên, Locliec còn phần 2 (và 3) "tụng ca" "công đức" quan lớn Toàn quyền nữa đấy.
XóaNhà em đã đọc phần 2! Tuyệt!
XóaNóng lòng chờ phần 3!
Vừa phục vụ quyền lợi của nước Pháp (dĩ nhiên là tối thượng vì lão ấy là người Pháp) vừa góp phần mở mang nước Việt về kinh tế, xã hội, văn hóa cho 90 triệu dân Việt kế thừa, bấy nhiêu đó đủ để đúc tượng chưa ?
Trả lờiXóaChưa. Gã ấy còn phải ở trần đóng khố, nói tiếng Việt và ăn thịt chó chấm mắm tôm nữa.
XóaVâng, nếu thấy rằng "bấy nhiêu đó đủ để đúc tượng" quan lớn Toàn quyền Đu me thì bố con các bác cứ việc đúc tượng. Cho nó trọn vẹn cái nghĩa "khuyển mã chí tình" ạ.
Xóa