Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Tìm người Vô ngã

 


1. Vô ngã trong đạo Phật

Phiên âm tiếng Phạn trong kinh điển là "anatta", dịch qua chữ Hán thành "vô ngã".

Ngã, chữ Hán có nghĩa là "ta, tôi, tao". Vô ngã nghĩa đen là “không có ta”, theo phái Đại thừa thì vô ngã có nghĩa là “vô tự tính” còn theo phái Nguyên thủy thì vô ngã có nghĩa là “không phải là ta, không phải là của ta”.

Hiểu nôm na, "Ngã" hay "cái Ta" bản chất chỉ là sự kết hợp của các yếu tố gọi là Ngũ uẩn, bao gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Bản thân các yếu tố ấy cũng tồn tại phụ thuộc vào nhau. Không có cái “Ta” độc lập, chủ thể nào bên trên sự kết hợp ấy. Thái độ vọng chấp coi trọng cái “Ta” và “Của ta”, đưa tới cách sống tiêu cực, ích kỷ, thù hận, kiêu căng, xấu xa, bất thiện.

Tu theo Phật, đạt được vô ngã thì cũng là đã vào được Niết bàn. Ở nước ta có khoảng 53.000 tăng ni, Thái Lan có khoảng 300.000 nhà sư nhưng thử hỏi đã mấy người đạt được vô ngã?

Hôm 15-7 vừa qua, Vua Thái Lan Vajiralongkorn đã ra sắc lệnh tước chức vị đã phong cho 81 nhà sư, sau khi cảnh sát Hoàng gia bắt cô nàng Wilawan Emsawat. Em này sau khi quan hệ tình dục thì giở bài tống tiền đối với hàng loạt sư trong đó có ít nhất 9 cụ trụ trì và chức sắc tôn giáo cấp cao, gây chấn động dư luận. Cảnh sát cho biết, các sư cụ đã nộp vào tài khoản của nàng 385 triệu Baht (tương đương 11,9 triệu Usd).

Kể vậy để thấy tìm trong giới tu hành, người đạt được vô ngã là hiếm cỡ nào.

2. Chuyện dân gian

Chuyện kể rằng: Một anh nọ uống rượu với bạn bè, say bí tỉ không còn biết trời trăng gì nữa. Chúng bạn muốn trêu anh bèn đem anh ra cạo trọc đầu, rồi khiêng bỏ vào chùa. Tỉnh dậy, anh ta thấy mình ở trong chùa, sờ lên đầu thấy trọc lốc, không thể nhớ ra mình là ai. Trên đường từ chùa về nhà anh ta cứ vừa sờ lên đầu vừa lẩm bẩm tự hỏi:

"Ta ơi, ta có phải là sư không? Sư ơi, sư có phải là ta không?".

Về đến nhà, con chó thấy anh đi xiêu vẹo, đầu lại trọc, không nhận ra chủ sủa ầm ĩ. Anh kết luận vậy là ta không phải là ta, mà ta là sư rồi.

Câu chuyện ngắn, tưởng chỉ là để vui đùa nhưng lại đầy tính triết học. Ta là ai? Ta là sư hay sư là ta? Câu hỏi này có tính tư tưởng cao hơn hẳn câu hỏi của Hamlet "tồn tại hay không tồn tại". Đây cũng chính là câu hỏi của Trang tử, một triết gia cổ đại người Trung Hoa trong câu chuyện Trang Chu mộng hồ điệp. Một hôm Chu (tên thật của Trang tử) mơ thấy mình là bướm, bay lượn tự do. Tỉnh dậy, Chu tự hỏi: Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay con bướm đang chiêm bao là Chu?

Trong trạng thái say cũng có thể đạt được "vô ngã", nhưng đến lúc tỉnh thì lại "hữu ngã". Trừ một vài trường hợp hiếm có như những nhân vật huyền thoại Tế Điên hay Lưu Linh bên Tàu.

3. Đời thường:

Càng ngày càng thấy nhiều ông chẳng phải là sư, chưa nhậu, hoặc nhậu chưa say mà đã túm áo người khác, hỏi: "Mày có biết bố mày là ai không"?

"Bố mày" ở đây phải hiểu là "Tao" chứ không phải bố thằng được hỏi.

Đấy, ra đường giờ này đầy các bậc "vô ngã" đích thực!


-----------

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2025

Chương trình POW/MIA: Gian nan - những chuyện như đùa,

 


Năm nay là năm kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (11/7/1995 - 11/7/2025). Trong 30 năm qua, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển vượt bậc, từ cựu thù trở thành bạn bè và đối tác, và nay là đối tác Chiến lược Toàn diện. 

Chương trình POW/MIA chính là then chốt mở ra mối quan hệ ấy.

POW là cách viết gọn của Prisioners Of War, MIA là viết gọn của Missing In Action. POW/MIA có nghĩa là Vấn đề tù binh, quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh.

Thực ra vấn đề POW/MIA ở Việt Nam bắt đầu từ thời Richard Nixon còn làm tổng thống. Khi phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ lên đến cao, Nixon đã cố gắng thuyết phục công chúng Mỹ tin rằng việc duy trì chiến tranh là cần thiết để giải cứu tù binh. Kết cục, chiến dịch Linebacker năm 1972 (dùng B52 ném bom Hà Nội) của Nixon chẳng những đã không "giải cứu" được thêm tù binh nào mà còn báo hại tiếp tục nối dài danh sách POW/MIA của nước Mỹ. Nixon buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Paris để thực hiện lời hứa đưa tù binh Mỹ về nước.

Sau Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề POW/MIA trở nên có vai trò rất quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ. Trên thực tế, chính quyền Mỹ đã không ít lần dùng vấn đề POW/MIA để gây sức ép với Việt Nam trong quan hệ song phương.

Thời Ford (1974-1977) và Carter (1977-1981) đều cho rằng Việt Nam không “đưa ra được một thống kê đầy đủ và chính xác về người Mỹ mất tích”, và đó là một "lý do hoàn hảo" để tiến hành cấm vận. Đến thời Ronald Reagan (1981-1989), thì vấn đề POW/MIA mới trở thành “ưu tiên cao nhất của quốc gia”. Điều đó có nghĩa rằng POW/MIA đối với nước Mỹ là vấn đề hết sức nghiêm túc và cấp bách.

Thế nhưng, những chuyện như đùa vẫn cứ xảy ra.

Đầu tiên là sự nhảy múa của những con số: Năm 1973, người Mỹ thống kê có 1303 MIA (lính Mỹ mất tích) đến năm 1978 đã giảm xuống còn 224. Hai năm sau (1980), con số này lại tăng vọt lên tới 2500. Đến năm 1987, con số này lại được công bố là 269.

Khi mà các con số của chính quyền Hoa kỳ không thể thuyết phục các cựu chiến binh Mỹ và thân nhân họ, thì đó lại là thời cơ của Hollywood.

Trong thập niên 70 và 80, Hollywood đã khai thác đề tài POR/MIA bằng loạt phim gồm Good Guys Wear Black (1978); Uncommon Valor (1983); Missing in Action (1984) và Rambo: First Blood phần II (1985). Đây là loạt phim hoàn toàn hư cấu về các người hùng kiểu Rambo đi giải cứu tù binh chiến tranh bị chính quyền Mỹ bỏ rơi trong những nhà tù bằng tre trong các khu rừng nhiệt đới. 

Một số cựu binh Mỹ nắm bắt ngay cơ hội, họ biết cách biến cuộc tìm kiếm những tù binh ảo của Rambo thành một hoạt động kinh doanh có thật.

Cựu Trung tá Không quân Jack E. Bailey lập ra một dự án kêu gọi tài trợ mang tên Chiến dịch Giải cứu và mua con tàu SS Akuna cho mục tiêu của dự án. Tuy vậy, nhiều năm trôi qua Bailey chẳng đưa ra được thông tin về bất kỳ một tù binh nào và con tàu phục vụ dự án của y cũng chưa bao giờ rời bến Songkhla ở Thái Lan. Sau, người ta phát hiện ra Bailey đã khoác lác khi đã tự tặng cho mình những huân huy chương và tuyên bố rằng mình là phi công lái máy bay chiến đấu trong khi y chỉ là sĩ quan mặt đất. Các điều tra tài chính sau đó đã chỉ ra rằng 89% số tiền gây quỹ Chiến dịch Giải cứu đã được Bailey dùng vào việc... tiếp tục gây quỹ .

Một anh khác, Bo Gritz, cựu thành viên Lực lượng đặc biệt được cho là đã thực hiện một loạt các nhiệm vụ ở Đông Nam Á, dưới danh nghĩa tìm kiếm các tù binh chiến tranh Mỹ vẫn đang bị giam giữ ở vùng biên giới Lào và Việt Nam. Hóa ra nhiệm vụ đặc biệt mà anh ta thực hiện ở đó chỉ là bán áo phông giải cứu tù binh chiến tranh làm kỷ niệm. Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ cuối cùng đã tuyên bố: "Trong suốt những năm tham gia của mình, ông Gritz không đóng góp gì có giá trị cho vấn đề tù binh/người mất tích trong chiến tranh. Trên thực tế, các hoạt động của ông đã đã có tác dụng.. ngược lại." 

Phía châu Á cũng cơ hội không kém, người ta "sản xuất" và bán ra các “bằng chứng” về tù binh, chẳng hạn như các thẻ bài hay vòng tay kim loại, hài cốt và những bức ảnh. Rồi còn có cả tù binh giả nữa. 

Có khi “hài cốt lính Mỹ” được “phát hiện” ở đâu đó,  được mua bán qua tay nhiều lần trước khi đến được với thân nhân. Nhưng khi thuê chuyên gia kiểm tra, họ phát hiện ra đó là hài cốt của người châu Á hoặc thậm chí chỉ là xương động vật.

Một bức ảnh được đặt tên là “Ba người bạn” công bố vào tháng 7-1991 trên bìa tạp chí Newsweek cho thấy rõ ràng có 3 "tù binh Mỹ còn bị giam giữ". Con gái của một đại tá không quân bị mất tích đã khẳng định “đó là cha tôi” trong chương trình “Good Morning America”. Sau mới vỡ lẽ đó là hình ảnh đã được những kẻ lừa đảo ở Campuchia chỉnh sửa từ bức ảnh chụp ba lão nông dân Nga vào năm 1921.

Một bộ phim tài liệu của Canada mang tên "Unclaimed" công bố một người đàn ông tự nhận là John Hartley Robertson, cựu Trung sĩ Mũ nồi xanh thuộc Lực lượng đặc biệt. Trong hồ sơ của chính phủ Mỹ, Robertson được xác định là đã chết khi bị bắn ngày 20-5-1968. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Hot Docs Canada ngày 30-4-2013.

Nhưng chỉ ngay ngày hôm sau, ngày 1-5-2013, trên tờ The Independent đã xuất hiện nội dung của một báo cáo lập năm 2009 của Văn phòng POR/MIA-Bộ Quốc phòng rằng người đàn ông tự nhận là Robertson thực chất là Đặng Tấn Ngọc, "một công dân Việt Nam gốc Pháp 76 tuổi đã có "tiền sự" nhiều lần giả làm cựu chiến binh quân đội Hoa Kỳ", có lẽ từ những năm 1982 để kiếm tiền. Robertson-Ngọc "quên sạch" tiếng Anh, lấy vợ người thiểu số và đã từng được đưa đến đại sứ quán Hoa Kỳ tại Campuchia để lấy dấu vân tay. Dĩ nhiên dấu vân tay của Ngọc không khớp với dấu vân tay của Robertson trong hồ sơ lưu.

Nhưng tai ác nhất phải là bài báo đăng trên trang nhất tờ Times ra ngày 12-4-1993, do nữ phóng viên Celestine Bohlen "đưa tin từ Moscow" tung ra một tài liệu được cho là của tình báo Xô Viết.




Thực ra, đây là tài liệu của Stephen Morris, một học giả người Úc luôn thể hiện sự thù địch với Việt Nam cung cấp cho Bohlen.

Tài liệu này viết rằng chính quyền Việt Nam vẫn còn đang giữ 1205 tù binh Mỹ, nhiều gấp đôi số được thả (591) khi Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973. Công bố này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận nảy lửa kèm theo những chỉ trích về sự giả dối của Việt Nam và cáo buộc chính quyền Hà Nội hoặc đã chuyển các tù binh sang giam giữ ở Nga hoặc đã sát hại các tù binh để che giấu.

Trong bài viết của Bohlen, tài liệu do Stephen Morris cung cấp được mô tả là "một báo cáo tuyệt mật (do "Trung tướng Trần Văn Quang - Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN") gửi đến Bộ Chính trị vào tháng 9-1972 cho thấy Bắc Việt Nam đã giam giữ 1.205 tù binh Mỹ".

Nhưng năm 1972 ông Trần Văn Quang chưa phải là Trung tướng và đang phụ trách Quân Khu Trị-Thiên, không phải là Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN.

Trong cái gọi là "báo cáo tháng 9-72 gửi tới Bộ Chính trị", "tướng Quang" nói về "các cuộc họp bí mật với một tướng ngụy Việt Nam Cộng hòa tên là Ngô Đình Dzu". Nhưng VNCH không có tướng nào mang tên đó, gần giống thì có tướng Ngô Dzu, năm 1972 đã từ chức tư lệnh quân đoàn 2, bỏ Kontum về Sài gòn chữa bệnh. Hay là Ngô Đình Nhu chăng? Nhưng ông Nhu đã bị nhóm đảo chính của VNCH giết chết vào năm 1963.

Một sự kiện khác mà "tướng Quang" nhắc đến vài lần trong “báo cáo tháng 9 năm 1972” là "Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam", nhưng đến tháng 12 năm 1974 Hội nghị đó mới diễn ra.

Các mô tả về "hệ thống nhà tù miền Bắc Việt Nam dành cho tù binh Mỹ" trong "báo cáo" của "tướng Quang" cũng khác hẳn với những gì các tù binh đã miêu tả sau khi được thả vào năm 1973. Các số liệu cũng không hợp lý, "báo cáo" cho biết tính đến tháng 9-1972, đã có 624 phi công bị bắt ở miền Bắc Việt Nam, trong khi đó thống kê của Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết con số tối đa chỉ có thể là 467.

Một câu hỏi dễ dàng đặt ra là liệu các sĩ quan tình báo quân sự Liên Xô ở Hà Nội có "giỏi" tới mức không biết tướng Phùng Thế Tài mới là Phó Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam vào năm 1972, hay có thể tưởng tượng ra một Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng hai năm sau mới diễn ra, hoặc có thể công nhận những cuộc họp xuyên không giữa "tướng Quang" với "tướng Ngô Đình Dzu" ở bên kia chiến tuyến trong khi chiến dịch Quảng Trị 1972 vẫn cứ diễn ra suốt năm chứ không chỉ trong một "mùa hè đỏ lửa".

Dù đã rõ ràng "báo cáo của tướng Quang" là một tài liệu ngụy tạo nhưng "Sự kiện đó như quả bom nổ tung, làm tan nát hết các dự định giữa hai bên", đó là nhận xét của ông Lê Văn Bàng, sau này trở thành đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Mỹ.

Vì vậy, cả hai phía Việt Nam và Mỹ đều phải khẩn trương phối hợp với Moscow tiến hành điều tra về nguồn gốc tài liệu. Kết quả, phía Nga khẳng định báo cáo kia là giả mạo, không hề có trong kho lưu trữ và thực chất nó là sản phẩm ngụy tạo của một trong những nhóm cực hữu chống phá việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ .

Nhưng tiến trình bình thường hóa giữa hai nước vẫn vì vụ việc này mà bị trì hoãn thêm một thời gian. 

Hơn hai năm sau, ngày 11-7-1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Công việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA) vẫn được cả hai nước tiến hành như là biểu tượng của sự hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh trong lòng hai dân tộc và hướng đến tương lai.


----------------


Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

Đọc chơi: ĐỊA DANH VÔ TÍCH

 


Khi Vô Tích, khi Lâm Truy.

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương

...

Ba quân chỉ ngọn cờ đào,

Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy...

Đó là hai câu thơ trong Truyện Kiều, nói tới địa danh Vô Tích.

Thời Xuân Thu chiến quốc, thì Lâm Truy là kinh đô nước Tề, còn Vô Tích thuộc nước Sở.

Trong chữ Hán, chữ Tích có nhiều cách viết, và cũng mang nhiều (vài chục) nghĩa, nhiều nghĩa thường gặp trong tiếng Việt, như: tích - xưa, tích - dấu vết, tích - tết (bện), tích - tiếc, tích - sáng, tích - tách, tích - chứa.. v..v...

Chữ Tích () trong địa danh Vô Tích, gồm chữ Dịch, đứng cạnh bộ Kim, có nghĩa là Thiếc, kim loại, (ký hiệu hóa học: Zn).

Đọc Đông Chu liệt quốc mới biết, nghĩa của Vô Tích là "không có thiếc".

Tên gọi này do Vương Tiễn, một danh tướng của nước Tần, đặt ra.

Năm 225 TCN, Vương Tiễn theo lệnh của Tần vương (Tần Doanh Chính, sau này gọi là Tần Thủy Hoàng đế), chinh phạt nước Sở. Quân Tần tiến vào Thọ Xuân, bắt sống vua nước Sở. Tướng Sở là Hạng Yên lập tôn thất nước Sở tên là Xương Bình quân lên ngôi, bỏ chạy về Lam Lăng, phía nam sông Trường Giang. Vương Tiễn lại kéo quân từ Anh Vũ Châu (Bãi Anh Vũ) đuổi theo chiếm thành Lam Lăng, diệt nốt Hạng Yên và Xương Bình Quân, sau đó tiếp tục đưa binh mã xuống càn quét miền Nam.

Vào khoảng năm 223 TCN, khi đóng quân ở núi Tích Sơn, quân lính của Vương Tiễn đào đất làm bếp thổi cơm, đào được một cái bia đá. Đem lên, thấy ở trong có khắc 12 chữ rằng:

“Hữu tích: binh, thiên hạ tranh;

Vô tích: ninh, thiên hạ thanh” .

Nghĩa là khi có thiếc thì đánh nhau, thiên hạ loạn; khi không có thiếc thì yên ổn, thiên hạ yên.

Vương Tiễn cho gọi thổ nhân (dân dịa phương) đến hỏi. Người này nói, từ khi vua Bình Vương nhà Chu dời sang đất Lạc (722 TCN), do núi ấy sản ra nhiều chì thiếc, nên gọi là Tích Sơn, 40 năm nay lấy dùng không hết, gần đây ít dần. Bia ấy cũng không biết người nào làm ra.

Vương Tiễn than rằng:

"Bia này lộ ra, thiên hạ từ đây được yên ổn, có lẽ người xưa đã xét thấy cái số (đã) định, nên chôn bia để bảo người sau đó chăng.

Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô Tích".

Hai năm sau, Tần Doanh Chính diệt nốt các nước chư hầu, bình định thiên hạ, chấm dứt hơn nửa thế kỷ chia cắt Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.



----------

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Đọc chơi: "Thay đổi địa danh" (trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hồ)

 

Phủ Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện trong phủ Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ, đời Lý đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh Xương, huyện Thanh Oai khi trước là Thanh Oai (1), huyện Thanh Trì trước kia là Thanh Đàm (2); chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương (3) nên mới phải bớt nét đổi là thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn (4) nên đổi ra chữ trì. Còn như trung lộ sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh Trì; Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm, huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt tên cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ Giang. Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy Lộ; Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại như kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu (5) tiếp giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ sông bị nước xói, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc suốt dọc bến phường Hà Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá làm mỏ hàn chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông, về phía nam, dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc. Bởi thế, những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các (6), nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố phường đô hội cả. Quê ta khi xưa là Hồng Lộ (nay là phủ Bình Giang), sau đổi là Hồng Châu, lại phân ra làm hai phủ Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang). Huyện ta làng Bùi Xá có ông Giám sinh tên là Nguyễn Luật; khi nhỏ ra chơi đùa ở làng ấy, ta thấy có một cái lò đất nung kiểu Trung Hoa, dưới đáy lò có thấy ghi mấy chữ: “Nhân Hồng phủ, Đường An huyện, Bùi Xá xã, Nguyễn mỗ công đức”, không biết cái lò ấy là tự đời nào. Huyện ta với huyện Đường Hào khi xưa hợp lại làm huyện Đường An. Ta thường hỏi cụ Phạm Quý Thích (7) về thời đại thay đổi, cụ cũng không được tường lắm. Còn như làng Hoa Đường (8) nguyên trước là Bồng thôn thuộc về xã Ngọc Cục, sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng. Xem trong “Đăng khoa lục” ghi chép quán chỉ (9) các đấng tiên hiền thì khá biết rõ.

Làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nguyên trước là xã Ngọc Ổi, sau đổi là xã Nhị Khê, theo biệt hiệu của một vị hương hiền là cụ Nguyễn Phi Khanh. Cụ Phong sinh ra ông Nguyễn Trực (10) người huyện Thanh Oai, là bậc ẩn dật không ra làm quan, biệt hiệu cụ là Bối Khê, nên làng cụ cũng theo biệt hiệu cụ mà gọi là xã Bối Khê. Khoảng năm Trung hưng, làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm có đào được cái chuông cổ ở chùa Diên Khánh. Mặt chuông có bài minh: “Đống Ngạch phường, Diên Hựu (11) tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân (12) thi kim nhất lạng” (13). Chữ rất cổ; hỏi thì các bô lão nói rằng phường Đống Ngạch xưa là đất làng Thụy Hương (Chèm) sau mới tách ra làng Đông Ngạc. Còn như chùa Diên Hựu mà đổi làm chùa Diên Khánh là để tránh phạm húy. Cuối đời Lê, cụ Phan Trọng Phiên có soạn bài khoán văn về việc trùng tu: “Chung minh Diên Hựu chi niên, tùng mậu trường thu chi âm” (14) cũng là trở về cái bài minh chùa Diên Hựu là Đông Ngạc vậy. Huyện Gia Phúc có bốn xã: Đỗ Tùng, Đoàn Tùng, Đào Tùng, Phạm Tùng. Cụ Đỗ Uông có làm bài ký cầu Phú Cốc (15) gọi là Tứ Tùng, tức là bốn xã trên. Sau để tránh tên húy Triết Vương (16), nên đổi là Tứ Kha.

Trấn An Bang vì tránh tên húy vua Anh Tông (17) nên đổi là An Quảng. Huyện Tân An, Duy Tân, Tân Phúc vì tránh tên húy vua Kính Tông (18) nên đổi chữ Tân ra chữ Tiên. Đạo Tuyên Quang ở vào đời vua Tương Dực đế (19) gọi là Minh Quang, nay mới gọi là Tuyên Quang, hoặc bảo là vì tránh niên hiệu Minh Đức (20) nhà Mạc mới gọi là Tuyên Quang. Song từ đời Lê Thái Tổ, trong sách Thực Lục đã gọi là Tuyên Quang rồi, như vậy không phải mới đổi từ đời Mạc. Gia Hưng, Quy Hóa, hai lộ hợp lại làm một, gọi là Hưng Hóa thừa tuyên, chép rõ ở trong sách Phong tục tổng lục. Thanh Hóa ở đầu đời Lê gọi là Thanh Hoa, đến đời trung hưng cũng gọi là Thanh Hoa. Vọng Giang về đời Trần là một trấn, khi thuộc đời Minh thì là một phủ. Tam Giang đổi là Tam Đáp, đều không biết đổi tự năm nào. Cụ Lê Quý Đôn (21) ở huyện Thiên Hà là bậc học thông minh rộng rãi, làm lãnh tụ trong nho lâm, khi sang sứ Trung Hoa, có vào yết kiến quan Đề học tỉnh Quảng Tây là Chu Bội Liên. Ông ta hỏi có chuyện Chiểu Lăng ở bên nước Nam nay thuộc về tỉnh, đạo nào. Cụ Lê Quý Đôn không thể đáp lại được. Khi trở về, hỏi ra thì chính là huyện Diên Hà. Năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt (22) có định sửa lại bản đồ trong thiên hạ, chia phủ Cao Bình (tức là Cao Bằng) gồm bốn châu thuộc đạo Thái Nguyên. Lúc đời Lê mới trung hưng, người Minh quy định cho họ Mạc ở đất ấy. Họ Mạc giữ đất Cao Bình bốn mươi bẩy năm. Nạn nội chiến tiếp diễn liên miên. Câu hát “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; nàng về nuôi cái cùng con, cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng.” là của vợ các chú lính phải đi chinh chiến lúc bấy giờ làm ra (23). Khoảng năm Khang Hy (24) đời nhà Thanh, quan trấn thủ Vân Nam là Ngô Tam Quế làm phản, họ Mạc cứu viện cho Ngô Tam Quế nên triều Lê mới tư sang Trung Hoa để họ cùng đưa binh sang đánh diệt họ Mạc, rồi đặt Cao Bình là một trấn, sai ông Võ Công Vinh lên làm Đốc trấn. Về sau, cứ theo thế, sai quan văn lên làm Đốc trấn, cũng giống như trấn Lạng Sơn, vì Cao Bình, Lạng Sơn bờ cõi tiếp liền với Vân Nam, Quảng Tây, công văn, giấy tờ đi lại, phi quan văn thì không làm nổi chức Đốc trấn ấy. Lại như Phú Lương, sau đổi ra Phú Bình, Đà Dương sau đổi ra Đoan Hùng, Ma Nghĩa sau đổi ra Minh Nghĩa, Cổ Đằng sau đổi ra Hoằng Hóa, Lương Giang đổi làm Đoan Nguyên (25), Thanh Đàm đổi làm Thanh Cương, Thanh Miệu đổi làm Thanh Miện, Tế Giang đổi làm Văn Giang, Trường Tân đổi làm Gia Phúc, Võ Ninh đổi làm Võ Giang, Thanh Liêm đổi làm Thanh Liệm. Cửa bể Thần Đầu đổi thành Thần Phù, nay đã lấp thành đồng bằng. Cửa bể Đại Ác nay đổi thành Đại An. Cổ Hiền khi xưa là một huyện, nay gồm về huyện bên cạnh. Hải Đông khi xưa là một phủ, nay thuộc cả về Trấn Ti. Đại loại như thế rất nhiều, không thể kể hết. Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được.

_______

 

Chú thích:

(1), (2) Trước là chữ Thanh có chấm thủy, nghĩa là trong. Sau, kỵ húy đổi thành Thanh -màu xanh,  không có chấm thủy.

(3) Tức Trịnh Tráng (1623 – 1657).

(4) Tức Lê Duy Đàm (1573 – 1599).

(5) Giang Khẩu, Hà Khẩu: là khu vực phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm (cũ).

(6) Thái Cực nay là sau phố Hàng Bạc và ngõ Sầm Công. Đồng Hà nay là Hàng Gai, Đông Các nay là Hàng Bạc.

(7) Phạm Quý Thích (1599 – ?) cũng người huyện Đường An, cùng quê với Phạm Đình Hổ.

 (8) Làng Hoa Đường là làng Phạm Quý Thích.

(9) Quán chỉ là quê quán, thân thế, nói chung.

(10) Nguyễn Trực (1417 – 1473) đậu trạng nguyên năm 1442 đời Lê Thái tông. Cụ Phong nói ở đây tức là Nguyễn Thi Trung.

(11) Bản dịch viết là Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự.

(12) Bản dịch viết là Tôn Trần.

(13) Quả chuông của chùa Diên Hỗ, phường Đống Ngạch. Năm Diên Hựu thứ hai đúc xong. Người tín đố làm quan tên là Tống Trân cúng một lạng vàng.

(14) Quả chuông khắc năm Diên Hựu, cây tùng tốt rợp bóng lâu dài.

(15) Đỗ Uông, người huyện Gia Phúc (Vĩnh Phú) đỗ bảng nhãn, làm quan nhà Mạc, nhà Mạc mất, ông đem các văn thần đến cửa quân nhà Lê xin quy thuận.

(16) Triết vương tức Trịnh Tùng (1570 – 1623) người đánh phá nhà Mạc, lấy lại Đông Đô lập ra nghiệp Chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. Miếu hiệu của ông là Thành Tổ Triết vương.

(17) Lê Anh Tông (1557 – 1573) tên húy là Duy Bang.

(18) Lê Kính Tông (1600 – 1619) tên húy là Duy Tân.

(19) Lê Tương Dực (1509 – 1516).

(20) Minh Đức là niên hiệu Mạc Đăng Dung (1527 – 1529).

(21) Lê Quý Đôn (1725 – 1783).

(22) Tức là năm 1491.

(23) Bản gốc viết là do các chinh phu, tức những binh lính đi chinh chiến xa làm ra.

(24) Khang Hy (1662 – 1720).

(25) Bản dịch viết là Thụy Nguyên.

---------

Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiều, còn có biệt hiệu là Hy Kiều Phủ, người đời thường gọi là Cụ Tế Đan Loan. Ông quê ở xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Nhà ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, thuộc thành Thăng Long.

Tác phẩm: Vũ trung tùy bút, Nhật dụng thường đàm, Đông Dã học ngôn thi tập, Bạn tiếp tồn phụng, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án)...

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

Tại sao cụ Phạm Quỳnh không gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông?

 


Bài trước, đã đặt ra và trả lời các câu hỏi Hòn ngọc Viễn đông là gì, mục đích của người Pháp khi gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông, quy mô của nó ra sao và vì sao lại có quy mô đó.

Bài viết dưới đây là phần tiếp theo của bài viết trước.

Và, vẫn muốn "gửi gắm" đến các anh chị thơ văn nửa mùa ở Sài Gòn đang khóc thương cho cái gọi là "Hòn ngọc Viễn đông"- Sài Gòn thời Tây - giờ chỉ còn là tên của một phường.


"Hòn ngọc" của ai?

Dĩ nhiên "Hòn ngọc Viễn Đông", nếu thực sự có, thì nó là của người Pháp, chứ không thể là của người Việt. Xem Wiki là biết:

Học giả Vương Hồng Sển cho rằng: danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" do quan chức thực dân Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó. Và:"Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui..."

Còn nhà báo Henry Kamn (New York Times) nhận xét: Sài Gòn không phải chỉ có sự lãng mạn như cái tên "Hòn ngọc Viễn Đông" mà người Pháp đặt cho nó; đại đa số người Việt Nam và người Hoa sống tại đây phải lao động cực nhọc vượt xa đồng lương rẻ mạt họ được nhận để tạo nên sự lãng mạn của thành phố. Sự phô trương chỉ tập trung vào đời sống của giới thượng lưu: Thực dân Pháp, người ngoại quốc, giới quý tộc Việt Nam.


 Ai có thể gọi Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông?

Như đã nói, cụm từ tiếng Pháp "La Perle de l'Extrême-Orient" dịch chính xác ra tiếng Việt là "Viên ngọc trai miền Viễn Đông", trong đó Viễn Đông có nghĩa là phương Đông xa xôi.

Từ năm 1918, cụ Phạm Quỳnh, trong tác phẩm Một tháng ở Nam Kỳ (in trong cuốn Mười ngày ở Huế, nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2001), đã không dịch một cách "thông thường" như vậy. Cụ viết:

"Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt  báu của Á Đông” (la perle de l’Extrême- Orient)".

Học giả Phạm Quỳnh là người viết báo, dịch sách, diễn thuyết bằng tiếng Pháp, 16 tuổi đã vào làm ở Viện Viễn Đông bác cổ với người Pháp. Cụ lại thông thạo cả chữ Hán.

Thế mà cụ dứt khoát không dịch "la perle de l’Extrême- Orient" thành "Hòn ngọc Viễn đông". Cụ lại dịch là “hạt  báu của Á Đông”.

Tại sao vậy? Vì cụ rất có ý thức là người Việt Nam thì không thể nói như người Tây. Và phải nói thêm, ở điểm này thì cụ Phạm đã cực kỳ tinh tế và chuẩn xác.

Vì đối với đám thực dân hay khách du người Âu, thì Sài Gòn đúng là phương Đông xa xôi thật. Tương quan về vị trí địa lý giữa châu Âu và Sài Gòn thì đúng là như thế. Chúng ở phía Tây lại nên được ta gọi là thằng Tây, khoai tây, hành tây, đồng hồ tây, chó tây và bây giờ vẫn có Tây ba lô.

Còn đối với người Việt Nam, và nhất là các anh chị người Sài Gòn, lại mang danh là người có tý chữ, mà lại tự gọi nơi chôn rau cắt rốn của mình là phương Đông xa xôi, thì... chỉ có thể gọi là... ... 

( ... tự kiểm duyệt)!

 

                                              "Hòn ngọc Viễn Đông" của ai?

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Sài Gòn-"HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG"?

 

Ngày hôm nay, 30-6-2025, biển tên Phường Sài Gòn đã được treo lên tại số 45-47 Lê Duẩn, nơi trước đây là Trụ sở UBND quận 1 -TP. Hồ Chí Minh.


Khi Nhà nước chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, địa giới hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh được mở rộng, bao gồm cả Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu. 

Hai chữ Sài Gòn được giữ lại để thành tên của một phường nằm ở khu vực trung tâm Thành phố. 

Rồi thì lại có mấy anh nhà thơ, nhà văn nửa mùa khóc thương cho cái mà họ gọi là Sài Gòn - "Hòn ngọc Viễn đông"- bị mất tên.

Những gì gọi là hồn cốt của Sài Gòn thì vẫn còn đó, có mất đi đâu?


"Hòn ngọc Viễn đông" là gì?

"Hòn ngọc Viễn Đông" là một mỹ từ mà thực dân Anh, Pháp, từ hơn một thế  kỷ trước, đặt cho một số thuộc địa của họ.

Không chỉ mỗi Sài Gòn mới được gọi bằng cụm từ này. Danh hiệu Hòn ngọc Viễn Đông còn được dùng để gọi Hương Cảng, Thượng Hải, Phnom Penh, Singapor, Manila, Sri Lanka, đảo Java, Birobijan và Harbin …

Ở xứ ta, ban đầu, người Pháp dùng mỹ từ này để gọi chung xứ Đông dương thuộc địa (Việt Nam, Lào, Căm pu chia). Người Pháp cũng dùng "Hòn ngọc Viễn Đông" để chỉ Sài Gòn, mặc dù so với một số các "Hòn ngọc" khác thì Sài Gòn thời đó còn kém xa về mọi mặt.

Danh hiệu "Hòn ngọc Viễn Đông" được dịch từ cụm từ tiếng Anh là "Pearl of the Far East", hoặc từ tiếng Pháp là "La Perle de l'Extrême-Orient", trong đó hai chữ "Viễn Đông" có nghĩa là "phương Đông xa xôi". 

Người Pháp gọi Sài Gòn là "Hòn ngọc Viễn Đông" để làm gì?

Về mặt văn bản, lần đầu tiên Sài Gòn được gắn vào cụm từ La Perle de l’Extrême-Orient, (dẫu còn ở thì tương lai và kèm theo điều kiện), có lẽ là vào năm 1881. Tờ báo Pháp  L’Avenir diplomatique (Tương lai ngoại giao) ra ngày 7-4-1881, dẫn lại từ bài diễn văn của Jules Blancsubé, thị trưởng đầu tiên của Sài Gòn, trong đó có đoạn hứa hẹn trước cử tọa Hiệp hội Hàng hải và Thuộc địa Pháp rằng:

Khi hệ thống giao thông đường thủy và đường sắt Đông Dương được hoàn thiện, thì: "... tous les produits de la Peninsule et de la Chine afflueront a Saigon, qui sera alors veritablement la perle de l'Extrême-Orient".

Dịch: ("...tất cả các sản phẩm của Bán đảo và Trung Quốc sẽ chảy vào Sài Gòn, nơi sẽ thực sự trở thành hòn ngọc trai của Viễn Đông").


                                                                    

Có thể thấy, ông Blancsubé dùng mỹ từ "Hòn ngọc Viễn Đông" với mục đích "kêu gọi đầu tư". Cụ thể là kêu gọi Hiệp hội Hàng hải và Thuộc địa Pháp đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thủy và đường sắt Đông Dương.

Sau này, ngoài mục đích "kêu gọi đầu tư" thì "Hòn ngọc Viễn Đông" có lẽ còn dùng để tuyên truyền về mặt chính trị, hay để tuyển viên chức người Pháp, (không thiếu những kẻ du thủ du thực ở chính quốc sang xứ Annam để trở thành quan lớn), hoặc để quảng bá, lôi kéo khách người Âu sang du lịch, thám hiểm và săn bắn ...

Ngoại vi Sài Gòn lúc bấy giờ còn nhiều rừng và thú hoang, có cả  thú dữ. Để ý rằng Huy hiệu biểu trưng cho Sài Gòn, do Hội đồng thành phố duyệt năm 1870, có khắc hai con cọp và hình ảnh cây cỏ đặc trưng cho vùng sông nước Sài Gòn. 


Quy mô "Hòn ngọc Viễn Đông" có lớn không? 

Mặc dù được người Pháp gọi một cách hoành tráng là "Hòn ngọc Viễn Đông", nhưng theo quy hoạch năm 1865 của người Pháp, thì Sài Gòn chỉ rộng khoảng 3 km², gồm 24 đường phố với các công sở và dinh thự cho người Pháp. Phần còn lại thì vẫn còn rất hoang vu.

Như đã nói, xung quanh Sài Gòn lúc bấy giờ còn nhiều rừng và thú dữ và huy hiệu biểu trưng của Sài Gòn còn thể hiện cảnh sông nước, hình hai con cọp và những cây cỏ hoang sơ. Vì thể việc Sài Gòn được người Pháp gọi là "Viên ngọc Viễn đông", vốn có thể là do chính vẻ đẹp và sự độc đáo từ thiên nhiên hoang dã của cả vùng, chứ không phải biểu thị cho sự phồn hoa, thịnh vượng trên diện tích 3 km² kia.



Nhà nghiên cứu Sơn Nam trong “Bến Nghé xưa” cho biết: mãi đến năm 1914 chợ Bến Thành mới hoàn thành và “trước mặt còn ao vũng sình lầy". Chỗ cái ao ấy, người Pháp gọi là ao Boresse, còn người Việt phiên âm là ao Bồ rệt, sau chỗ này trở thành công viên Quách Thị Trang và bây giờ là Nhà ga ngầm Trung tâm tuyến Metro Bến Thành- Suối Tiên. .




                                                        Ao Bồ Rệt (Marais Boresse)

 

Tại sao "Hòn ngọc Viễn Đông"lại bé thế?

Đơn giản là vì những người chủ trương xây dựng "Hòn ngọc Viễn Đông" không đủ tiền.

Dinh Xã Tây, bộ mặt công quyền của "Hòn ngọc Viễn Đông", khởi công năm 1873 nhưng 15 năm sau (1898) mới có tiền để xây dựng và mãi năm 1909 mới xong. 

Hệ thống đường sắt Đông Dương, dự án mang tính tiền đề để "Sài Gòn thực sự trở thành viên ngọc của Viễn Đông" như lời "kêu gọi đầu tư" của Blancsubé năm 1881, đến năm 1897 mới được Hội đồng Đông Dương thông qua và mãi tới năm 1908 mới xây dựng xong. Để có tiền thực hiện dự án đường sắt này, Toàn quyền Paul Doumer đã phải phát hành công trái vay 200 triệu Franc và trả trong vòng 75 năm.

Riêng tuyến Đà Nẵng-Nha Trang-Sài Gòn, gần bốn chục năm sau (tháng 10 năm 1936) mới hoàn thành.

Để kiếm ra tiền, thì từ năm 1881, người Pháp đã mở Nhà máy chế biến thuốc phiện (Manufacture d'Opium) ở ngay trong khu vực quy hoạch "Hòn ngọc Viễn Đông". Thuốc phiện từ đây được bán ra khắp Đông Dương, riêng năm 1914 lợi nhuận vọt lên cao, chiếm đến 36,9% ngân sách Đông Dương. Ngày nay vẫn còn di tích cái cổng nhà máy này ở số 74 đường Hai Bà Trưng.

Nhưng vẫn không đủ. Biện pháp khả dĩ nhất của Toàn quyền Doumer là tăng thuế. Đại úy Fernand Bernard, sĩ quan phụ tá của Doumer, trong cuốn Đông Dương - Những sai lầm và nguy hiểm (L’ Indo-Chine. Erreurs et dangers, NXB Charpentier, 1902), viết rằng:

“Vào năm 1897, chỉ trong vài tuần lễ, một cơn mưa đá thực sự đổ xuống. Tăng thuế thân và thuế địa ốc, thuế của những người không đăng ký, thuế đăng ký sắc phong của các quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy có đóng dấu, thuế muối, rượu, thuyền trên sông, giấy phép đốn gỗ, thuế thuốc lào, thuế cau, thuế củi, thậm chí cả thuế rơm thuế rạ để lợp những cái lều thảm hại nhất...”

Khai thác thuộc địa, thu đủ các thứ thuế một cách cực kỳ tàn ác, cộng thêm sản xuất rồi bán và ép người dân Annam phải tiêu thụ rượu và thuốc phiện để tăng nguồn thu, nhưng người Pháp vẫn thiếu tiền.

Đánh nhau với Đức 1914-1918 (Thế chiến I) , người Pháp phải moi thêm tiền dân đen Annam bằng cách vận động, bán trái phiếu “Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”.

Đánh nhau với Việt Minh 1954, người Pháp cũng hết tiền, phải nhờ nước Mỹ trả giúp 80% chiến phí.

Cho nên, tận đến ngày thua Việt Minh và tháo chạy về nước (1954), thì cái gọi là "Hòn ngọc Viễn đông" của nước Đại Pháp cũng vẫn chỉ loanh quanh trong phạm vi 3 km² (nay là một góc phường Sài Gòn) mà thôi.


                                                                    ---------